Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Đại cương giun sán

Đại cương giun sán

Khái niệm về giun sán.

Giun sán là những động vật đa bào, cấu tạo thân có những cơ quan biệt lập. Giun sán kí sinh bao gồm các loại giun sán kí sinh trên động vật và thực vật. Có nhiều loại giun sán sống tự do. Tuy nhiên, đối tượng hệ trọng chủ yếu tới y học bao gồm các giun sán kí sinh ở người, các động vật khác liên tưởng tới người, tức là có thể truyền bệnh sang người.

Giun sán sống kí sinh ít hơn, không giống hẳn với nguồn gốc tổ tiên của chúng, cấu tạo cơ thể đã có nhiều thay đổi thích nghi với đời sống kí sinh. Giun sán thường kí sinh theo phương thức buộc, kí sinh vĩnh viễn trong thân vật chủ. Một số ít kí sinh theo phương thức tình cờ lạc chủ, chúng sống lâm thời ở các mô của vật chủ, không phát triển tới tuổi trưởng thành.

phần lớn giun sán kí sinh ở ống tiêu hóa, bất thường có thể di chuyển lạc chỗ đến những nơi khác trong cơ thể vật chủ. Một số giun sán kí sinh ở gan, phổi, cơ, hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn...

Phương thức sản xuất khác nhau rõ rệt giữa giun tròn, sán lá, sán xơ mít. Hầu hết giun tròn sản xuất đơn giới (có giun đực, giun cái riêng). Sán sinh sản lưỡng giới, riêng sán lá có hình thức sinh sản phôi tử (ấu trùng có khả năng sản xuất) và hình thức sản xuất đa phôi (từ một mầm trứng sinh sản thành nhiều ấu trùng).

Đường thâm nhập của giun sán vào cơ thể vật chủ cũng rất khác nhau. đốn theo đường tiêu hóa (giun đũa, giun tóc, giun kim, sán lá phổi, sán dây lợn, sán dây bò...). Một số giun sán thâm nhập vào cơ thể vật chủ qua đường da (giun móc, giun lươn, sán máng...). Một số thâm nhập vào thân thể vật chủ qua vết đốt của côn trùng hút máu (giun chỉ...).

Đường thải mầm bệnh giun sán ra khỏi thân thể vật chủ khác nhau, cốt theo đường thải bã của ống tiêu hóa. Có loại như sán máng S.heamatobium thải trứng qua đường nước giải. Có loại thải trứng qua đờm như sán lá phổi Paragonimus sp.

Bệnh giun sán rất phổ thông ở các nước nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm rất tiện lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của giun sán và các vật chủ trung gian của chúng.

Ở các nước kinh tế chậm phát triển, trình độ văn hoá vệ sinh kém cỏi, phong tục lạc hậu tỉ lệ nhiễm giun sán rất cao, cường độ nhiễm giun sán nặng. Tỉ lệ nhiễm giun sán phối hợp (hai, ba, bốn loại giun sán) trên cùng một thân khá cao. Môi trường ngoại cảnh luôn bị ô nhiễm nặng nề bởi mầm bệnh giun sán. Theo thống kê của viện Sốt rét - KST - CT Trung ương, ở miền Bắc Việt Nam, mọi mẫu đất đều tìm thấy trứng giun đũa. Điều này gây khó khăn lớn cho công tác gian giun sán ở Việt Nam.

Tác hại của giun sán với thân vật chủ.

Các giun sán kí sinh đều gây hại cho vật chủ. Có loại rất hiểm nguy dễ gây chết người như: giun đũa, giun soắn. Có loại gây biến chứng nặng nề như thiếu máu, giảm hoặc mất khả năng cần lao, dẫn đến tàn phế như giun móc, giun chỉ… Nhưng có loại giun sán thường gây tác hại lặng thầm và bị che lấp bởi nhiều bệnh cấp tính khác nên người bệnh không có nhu cầu cấp bách phải chữa trị và phòng bệnh.

Nói chung tác hại của bệnh giun sán đối với sức khoẻ và đời sống nhân dân là rất lớn, nhưng thầm lặng, những tác hại do giun sán gây ra bao gồm:

Chiếm đoạt dinh dưỡng của thân vật chủ:

Giun sán tiếp nhận một phần thức ăn của thân vật chủ, nếu số lượng giun nhiều thì lượng thức ăn bị mất càng lớn.

Trong một sớm hôm, sán dây bò có thể dài ra 7 - 10 cm, do đó nhu cầu dinh dưỡng của sán rất cao. Một số giun sán hút máu thân thể người như : giun móc, giun tóc... Giun sán còn chiếm những chất cần thiết của thân thể người như: protein huyết thanh, axit folic, sắt huyết thanh (giun móc/mỏ), vitamin B12 (sán xơ mít cá).

Gây độc cho cơ thể vật chủ:

Giun sán tiết ra chất độc, hoặc thải những sản phẩm chuyển hoá gây độc cho cơ thể vật chủ với biểu thị: kém ăn, buồn nôn, mất ngủ. Giun đũa có chất độc ở xoang thân ( Ascaron) có thể làm chết thỏ thể nghiệm. Có trường hợp điều trị giun đũa, giun bị chết chất độc của giun phóng thích ra làm người bệnh bị nhiễm độc phải cấp cứu.

Tác hại cơ học:

Giun móc, giun tóc bám vào niêm mạc ruột gây viêm loét ruột. Giun đũa gây viêm tắc ruột, tắc mật, tắc ống tụy.

Nang ấu trùng sán xơ mít lợn ở não gây động kinh, đột tử; ở mắt gây mù mắt.

Giun chỉ gây phù voi do tắc bạch huyết.

Sán lá phổi làm vỡ thành mạch phổi gây ho ra máu…

Gây dị ứng cho vật chủ:

Ấu trùng sán di cư trong cơ thể vật chủ thường gây hiện tượng dị ứng (giun đũa, giun tóc), đặc biệt có loại gây dị ứng nặng, sốt cao, phù nề, bạch huyết cầu ái toan tăng cao (giun soắn).

Mở đường cho vi khuẩn thâm nhập:

Giun đũa, giun tóc, sán xơ mít làm cho độ toan dịch dạ dày giảm, vi khuẩn dễ phát triển khi thâm nhập qua đường tiêu hoá.

Ấu trùng giun móc/mỏ, giun lươn... khi chui qua da gây viêm da.

Nhiều tác hại do giun sán gây ra chẳng thể kể hết, có những tác hại âm lặng thầm lẽ, không có mô tả bệnh lí, nhưng về mặt sinh hoá có những biến đổi không thông thường.

Chẩn đoán bệnh giun sán.

Chẩn đoán bệnh giun sán thường phải dựa vào nhiều nhân tố:

Chẩn đoán bệnh giun sán dựa vào triệu chứng lâm sàng chỉ có thuộc tính tham khảo không chính xác vì các triệu chứng của bệnh không tiêu biểu.

Chẩn đoán bệnh giun sán chủ yếu dựa vào xét nghiệm kí sinh trùng học. Tùy theo vị trí kí sinh và đường thải mầm bệnh ra ngoại cảnh mà xét nghiệm các bệnh phẩm: phân, đờm, máu, nước giải... Muốn xác thực, phải dựa vào đặc điểm sinh lí, sinh thái của từng loại giun sán, để tìm trứng, ấu trùng, hoặc giun trưởng thành. Ví dụ: đối với giun đũa thì phải tìm trứng giun đũa ở trong phân, giun kim phải tìm trứng ở nếp nhăn lỗ đít, giun chỉ phải xét nghiệm máu vào ban đêm để tìm ấu trùng giun chỉ.

Các phương pháp chẩn đoán miễn dịch học thường cho kết quả không chính xác vì thường có đáp ứng miễn nhiễm chéo giữa các loại giun sán.

bây giờ kĩ thuật chẩn đoán bằng sinh học phân tử đã và đang có nhiều hứa hẹn trong việc phát hiện và định loại các loài giun sán.

Điều trị bệnh giun sán.

Nguyên tắc điều trị bệnh giun sán:

Chọn thuốc có hiệu quả với nhiều loại giun sán, vì ở nước ta có tỉ lệ nhiễm giun sán kết hợp cao, một người thường bị nhiễm 2 - 3 loại giun sán.

tụ hợp thuốc với nồng độ cao để có tác dụng mạnh đến giun và sán. Muốn vậy thường cho bệnh nhân uống vào lúc đói, nhưng không quá đói vì dễ ngộ độc thuốc. Nên dùng thuốc nhuận trường hoặc thuốc tẩy để tẩy sạch chất nhầy phủ trên thân thể giun sán giúp cho thuốc ngấm được nhiều, nâng cao hiệu quả điều trị. Nên chọn thuốc có độc tính thấp nhưng có hiệu quả cao.

Sau khi uống thuốc điều trị giun sán, nên dùng thuốc tẩy để tống nhanh giun sán ra khỏi cơ thể, tránh được nhiễm độc (do giun sán bị chết, nát) và đề phòng được khả năng giun sán có thể hồi phục trở lại. Nên chọn những thuốc bào chế đã có thêm cả thuốc nhuận trường.

Phải xử lí giun sán sau khi tẩy, để tránh ô nhiễm môi trường vì giun sán thường chứa một lượng trứng rất lớn.

Sau khi tẩy giun sán cần vận dụng các biện pháp vệ sinh, chống tái nhiễm. Ở nước ta môi trường ngoại cảnh thường bị ô nhiễm nặng nề bởi các mầm bệnh giun sán đó sẽ là điều kiện tái nhiễm rất tiện lợi.

Cần điều trị định kì giun sán (6 - 12 tháng điều trị một lần) để phòng chống tái nhiễm và các biến chứng có thể xảy ra. Điều trị giun sán định kì được coi như một phương pháp bổ sung cho chương trình dinh dưỡng ở những vùng có lưu hành bệnh giun sán. Người ta đã nghiên cứu ở Tanzania, thấy tỉ lệ tăng trọng lượng ở nhóm trẻ được điều trị giun sán lớn hơn 9% so với nhóm trẻ đối chứng không được điều trị giun sán (bẩm kĩ thuật 666, WHO, 1982).

Khái niệm điều trị hàng loạt, điều trị lựa chọn các bệnh giun sán:

Điều trị hàng loạt:

Điều trị hàng loạt có chu kì cho tập thể là điều trị cho tất dân cư sống trong khu vực đó. Đây là một trong những biện pháp rất có hiệu quả trong công tác buồng các bệnh giun sán truyền qua đất. Điều trị hàng loạt mặc dù được xác nhận là một trong những biện pháp có hiệu quả nhất phòng chống các bệnh giun sán truyền qua đất. Song đầu tư tài chính cho điều trị hàng loạt rất tốn kém. - Mục đích điều trị hàng loạt không phải để tẩy hết giun sán, chỉ để giảm cường độ nhiễm bệnh và giảm tần số truyền bệnh. Khi áp dụng phương pháp điều trị hàng loạt cần đặc biệt để ý tốc độ tái nhiễm. Cần nghiên cứu cách thức dùng thuốc, tần số, khoảng cách, để tuyển lựa biện pháp tốt nhất làm giảm tỉ lệ nhiễm, giảm tốc độ tái nhiễm.

Thuốc dùng trong điều trị hàng loạt phải ít độc, an toàn, có thể dùng rộng rãi trong dân chúng, không gây biến chứng. bây chừ các thuốc điều trị an toàn, hiệu quả cao với nhiều loại giun sán là albendazole, mebendazole. Nói chung nên dùng các thuốc để điều trị 3 lần/năm, khoảng cách 4 tháng trong 3 năm đạt tỉ lệ tái nhiễm thấp nhất.

Điều trị lựa chọn:

Là chỉ điều trị cho một nhóm người trong một khu vực cố định.

Mục đích: nhằm đề ra biện pháp điều trị tuyển lựa ở các đối tượng bị nhiễm giun nặng. Ví dụ: con trẻ là đối tượng có nguy cơ nhiễm giun cao nhất, cường độ nhiễm nặng nhất, tinh thần vệ sinh kém nhất, nên trẻ con là nguyên do gây ô nhiễm mầm bệnh giun sán ra ngoại cảnh mạnh nhất và cũng là đối tượng tái nhiễm nhanh nhất. Qua nghiên cứu thấy rằng chỉ cần tụ họp điều trị cho trẻ dưới 16 tuổi (chiếm khoảng 50% dân số) cũng làm giảm được tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm giun sán trong cả cộng đồng. Cũng có quan niệm lựa chọn những người có cường độ nhiễm nặng nhất, tụ hội điều trị cho họ cũng mang lại hiệu quả hao hao.

Điều trị lựa chọn đạt hiệu quả tương đương với điều trị hàng loạt, mà đầu tư tài chính lại kiệm ước được thời kì, công sức, nhân công và đặc biệt lại hà tằn hà tiện được 50% kinh phí. Người ta thường áp dụng điều trị chọn lọc với một số bệnh giun sán truyền qua đất, dễ mắc nhất, tỉ lệ nhiễm cao, cường độ nhiễm nặng. Thậm chí có thể ứng dụng với một số bệnh kí sinh trùng khác.

Một số thuốc điều trị cốt yếu:

Thuốc điều trị giun:

Piperazin (Dietylen diamin), dược dụng là loại hexahydrat.

Biệt dược: piperal, piperazin citrat, piperol, antepar...

Cơ chế tác dụng: chẹn thần kinh cơ do tác dụng kháng tiết cholin ở chỗ nối cơ thần kinh và giảm bớt sự sinh sản succinat (cung cấp năng lượng cấp thiết cho sự co cơ giun). Do đó giun bị liệt, không thể kháng lại nhu động ruột và bị tống ra ngoài.

Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun kim.

Tác dụng phụ: hiếm thấy ở liều điều trị, nếu có: nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn.

Chống chỉ định: bệnh gan, thận, động kinh, thai 3 tháng đầu, không dùng khi nhiễm quá nhiều giun vì có thể gây tắc ruột.

Levamisole:

Biệt dược: levaris, decaris, solaskil...

Cơ chế tác dụng: thuốc ức chế hoạt động của men succinat dehydrogenaza có ở trong thân của giun. ngăn trở sự chuyển hoá fumarat thành succinat dẫn đến bại cơ giun rồi thải trừ qua phân.

Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun tóc, giun kim.

Tác dụng phụ: ít gặp, nếu có: nhức đầu, đau bụng, đi ngoài, dị ứng. nữ giới có thai không nên dùng.

Chống chỉ định: suy gan thận nặng, phụ nữ có thai.

Mebendazole:

Biệt dược: vermox, fugacar, soltric...

Cơ chế tác dụng: thuốc ức chế sự thu nhận glucose của giun làm mất mất khả năng dự trữ glycogen, giảm hình thành ATP (là chất quan trọng trong việc duy trì sự sống và sản xuất của giun).

Thuốc có tác dụng với nhiều loài giun: giun đũa, giun tóc, giun móc, giun kim và ấu trùng giun chỉ.

Tác dụng phụ: hiếm gặp, nếu có: đau bụng, buồn nôn, đi ngoài. Không dùng cho phụ nữ có thai.

Albendazole:

Biệt dược: zentel, zenben, alzental.

Cơ chế tác dụng: cơ chế tạo dụng cũng giống mebendazol.

Tác dụng với nhiều loại giun: đũa, tóc, móc, kim, lươn, sán xơ mít lợn…

Pyrantel:

Biệt dược: combantrin, antiminth, panatel...

Là dẫn chất của pyrimidine.

Cơ chế tác dụng: ức chế dẫn truyền thần kinh cơ của giun gây nên liệt cứng và giun bị tống ra ngoài.

Thuốc có tác dụng với: giun đũa, giun kim, giun móc. + Thiabendazole (mitezol):

Cơ chế tạo dụng: ức chế hệ fumarat-reductase đặc hiệu ở ti thể của tế bào giun, ức chế tiết acetylcholinesterase của giun lươn, ngăn cản giun chuyển di. - Chỉ định: hiện thiabendazol là thuốc tốt điều trị giun lươn. Thiabendazole còn được sử dụng điều trị bệnh ấu trùng của giun động vật khi nhiễm vào người như: viêm màng não - não do Angiostrongylus cantonensis. Bệnh ấu trùng cơ, tổ chức do nhiễm giun đũa chó ( Toxocara canis ), mèo ( Toxocara cati ).

Tác dụng phụ: ít gặp, chán ăn, buồn nôn, nôn, đau đầu, hạ glucose máu, nên nghỉ 24 giờ sau khi dùng thuốc.

Chống chỉ định: bệnh gan.

Diethylcarbamazin (DEC, banocid, notezin...):

Cơ chế tạo dụng: làm liệt cơ giun ở thể trưởng thành của giun chỉ. Với ấu trùng: DEC tác dụng phê duyệt cơ chế miễn nhiễm dịch thể và tế bào của vật chủ.

Thuốc có tác dụng: giun chỉ ở thể trưởng thành và ấu trùng.

Độc tính: liều cao gây rối loạn tiêu hoá, mệt, choáng váng, ngủ lịm... Do phản ứng miễn nhiễm: toàn thân, tại chỗ nổi hạch, viêm hạch bạch huyết, viêm thừng tinh, viêm mào dịch hoàn.

Thuốc điều trị sán:

Niclosamid (yomesal, niclocide, tamox...):

Cơ chế tác dụng: thuốc không tiếp nhận qua ống tiêu hoá mà chỉ thấm qua phần tổn thương ở vỏ sán qua thân sán sau đó sán bị enzym hủy protein của vật chủ phân giải.

Thuốc có tác dụng với các loại sán dây bò, sán dâylợn, sán màng ( Hymenolepsis nana ) sán nhái ( Dyphyllobothrum latum ), - Không nên dùng cho nữ giới có thai, có thể gây buồn nôn, nôn, đau bụng.

Không uống rượu trong thời gian dùng thuốc.

Praziquantel (pratez, biltricid, cesol):

Cơ chế tạo dụng: cản trở tiếp thu glucose, tăng thải acid lactic làm kiệt dự trữ glycogen, làm vỏ sán dễ bị tác động của enzym huỷ protein vật chủ làm đổi thay tính thấm màng tế bào sán, thoát cơ chất.

Tác dụng: diệt các thể trưởng thành của sán xơ mít (bò, lợn), sán lá (sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán lá ruột), sán máng ( Schistosoma ), sán màng, sán nhái. Không có tác dụng diệt trứng sán.

phòng bệnh giun sán.

phòng các bệnh giun sán truyền qua đất (Geohelminth):

Công tác gian các bệnh giun sán truyền qua đất ở các nước đang phát triển rất khó khăn:

Do vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân kém, thiếu sự giáo dục về y tế, khả năng cung cấp nước sạch không đảm bảo, có phong tục tập quán dùng phân người trong nông nghiệp, phóng uế cực, hố tiêu không đúng quy cách nên làm ô nhiễm nặng nề môi trường bởi mầm bệnh giun sán.

Các nguyên tố khác: mưa, gió, gia súc (trâu, bò), gia cầm (lợn, chó, gà...), các động vật chân đốt (ruồi, bọ hung...) cũng có vai trò quan yếu thúc đẩy sự phát tán mầm bệnh giun sán. Sự lan truyền mầm bệnh giun sán xảy ra cả vào mùa mưa và mùa khô.

Trứng giun sán trên mặt đất bị mưa cuốn trôi, đến những chỗ thấp hơn, tụ hội ở những vũng nước trên mặt đất, lắng đọng trong một lớp bùn mịn giữa một lớp che phủ bảo vệ mỏng của chất keo đất sét và một lớp các hạt thô hơn của mùn cát.

Khả năng phát tán của trứng giun sán ra môi trường lớn: trứng giun sán cùng với bụi nhờ gió thổi vào mọi xó xỉnh, đồ vật trong nhà, mọi chỗ đều bị nhiễm trứng giun sán.

Trứng giun sán có thể tồn tại lâu trong đất, môi trường. thí dụ: tại Xamacan, qua 15 năm quan sát có chu kì trứng giun đũa chôn ở gần mặt đất tại một thí nghiệm ở công viên, thấy sau 9 năm, một số trứng chuyển di tới độ sâu 20 cm và còn khả năng sống tới 2%. Ở độ sâu 10 cm còn khả năng sống 5,9 - 7,6%. Sau 15 năm một số trứng vẫn còn khả năng lây bệnh cho động vật thực nghiệm. Ở điều kiện hạp về nhiệt độ, độ ẩm, trứng giun đũa có thể sống ở ngoại cảnh 5 - 6 năm vẫn còn khả năng lây nhiễm. Tại Anh, trứng giun tóc phát hiện ở độ sâu 60 cm. Nhưng nói chung các trứng ở độ sâu hơn 20 cm đều ít có khả năng sống.

Mặt khác trứng giun sán có thể tồn tại lâu ở ngoại cảnh do tác động của con người làm tăng mức ô nhiễm mầm bệnh giun sán ở ngoại cảnh:

Trứng giun sán có nhiều ở thực phẩm tươi sống (rau, quả).

Ở những thực phẩm muối dưa, hành... trứng giun sán vẫn có khả năng sống được và gây bệnh.

Mục tiêu trước mắt phòng chống bệnh giun sán ở Việt Nam là giảm cường độ nhiễm.

Biện pháp có hiệu quả nhất là phối hợp hài hoà các biện pháp tổng hợp:

Vệ sinh cá nhân:

Tăng cường giáo dục tinh thần vệ sinh cá nhân chủ nghĩa cho mọi người, đặc biệt là trẻ thơ, cần có phối hợp giữa y tế với giáo dục để đưa giáo dục vệ sinh vào giáo dục học đường phổ cập.

Giáo dục vệ sinh bàn tay, vệ sinh ăn uống, vệ sinh phóng uế... để mọi người tự thấy cần thiết phải rửa tay trước khi ăn, nâng cao ý thức vệ sinh, không ăn các thực phẩm tươi sống, chưa rửa kĩ, không đảm bảo vệ sinh.

Không mặc quần thủng đít cho trẻ con, không phóng uế đại ra vườn, sân, hè phố...

Vệ sinh môi trường:

Rất quan trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, thuộc khu vực nhiệt đới, do thu nhập thấp, trình độ văn hoá kém, tụ hợp lâu đời, lạc hậu... Phải có biện pháp hăng hái tuyên truyền cộng đồng quản, xử lí nguồn phân và bảo vệ nguồn nước sạch.

Cần phải có hố xí đúng quy cách, hợp vệ sinh, diệt được các mầm bệnh kí sinh trùng. Trước đây mô hình nhà xí hai ngăn được coi như một sáng kiến của Việt Nam. Tại Hội nghị quốc tế về vệ sinh môi trường ở Băng Cốc (1978) đã công nhận và đặt tên cho hiên hai ngăn của Việt Nam là Vietnamise composting toilet. hố xí hai ngăn đúng quy cách là nhà xí phải bảo đảm được các yêu cầu: có hai ngăn (một ngăn sử dụng, một ngăn ủ phân), phải kín, khô đủ nhiệt độ, đủ chất độn, đủ thời kì ủ (2,5 - 3 tháng), có tác dụng diệt các mầm bệnh kí sinh trùng (trứng giun sán, kén đơn bào...). Nhưng trong thực tế rất hiếm hành lang đạt được các tiêu chuẩn kể trên. hiện giờ Tổ chức Y tế thế giới đã và đang phổ biến nhiều loại chuồng tiêu: Biogaz, chuồng tiêu Sulav (chuồng xí thấm, dội nước)... Giá thành rẻ hơn hiên tự hoại, có tác dụng diệt các mầm bệnh kí sinh trùng và vi sinh vật. chuồng xí Sulav giá thành tương đương hố xí 2 ngăn, nhưng tác dụng diệt mầm bệnh tốt hơn. Tuy nhiên chuồng tiêu này khó vận dụng ở vùng đồng bằng ngập nước, ở ven đô, ngoại thị, đất chật. Nguyễn Mạnh Liên và Bộ môn Vệ sinh quân đội - Học viện Quân y đã đưa ra mô hình nhà tiêu Sulavina (chuồng xí thấm dội nước có hào lọc định hướng). Nguyên tắc như chuồng xí Sulav, nhưng sử dụng được cả vùng đồng bằng ngập nước, vùng ven đô đất chật. Lê Bách Quang, Trịnh Trọng Phụng (1991), đã nghiên cứu khả năng gây ô nhiễm mầm bệnh kí sinh trùng của nhà cầu Sulavina ra môi trường đất, nước, cho thấy Sulavina là hành lang hợp quy cách vệ sinh. Cùng với quản lí nguồn phân, cần có những ráng làm sạch các mầm bệnh kí sinh trùng, vi sinh vật ở ngoại cảnh, làm sạch môi trường bằng các biện pháp lí, hoá, sinh học.

Cần có những biện pháp bảo đảm vệ sinh nguồn nước. Giếng nước phải xa các hố tiêu, xa chuồng chăn nuôi gia súc, không bị rò rỉ, thấm nước. Nguồn nước chưa sạch cần có bể lọc, nước uống cần đun sôi để diệt những bệnh kí sinh trùng truyền qua nước.

Trình độ văn hoá thấp kém, phong tục lạc hậu, đích thực là hàng rào ngăn cản công tác phòng chống bệnh giun sán. Để giáo dục tập quán vệ sinh trong quần chúng. # cần phối hợp tuyên truyền đạo dục với các biện pháp hành chính như những quy định về tầng lớp, văn hoá, kinh tế. Nhằm vào đối tượng trẻ con để xây dựng tập quán mới, khoa học, vệ sinh cho hiện tại và cho ngày mai.

phòng các loại giun sán truyền qua sinh vật (Biohelminth):

Công tác buồng các bệnh giun sán truyền qua sinh vật về cơ bản giống như các nguyên tắc buồng các bệnh giun sán truyền qua đất, nhưng chú ý:

Các biện pháp phòng và diệt vật chủ trung gian truyền bệnh (tỉ dụ: các biện pháp diệt muỗi truyền bệnh giun chỉ). Các biện pháp thẩm tra thực phẩm, thịt, cá... để ngăn chặn lan truyền các bệnh sán dây lợn, sán xơ mít bò, sán lá gan bé, sán lá phổi...

Giáo dục kiến thức vệ sinh chung, vệ sinh ăn uống, nhằm thay đổi các phong tục ăn gỏi cá, các thức ăn sống, tái hoặc chưa nấu chín.

phối hợp với chuyên ngành Thú y, đề xuất các biện pháp bảo vệ đàn gia súc, chống lại các mầm bệnh kí sinh trùng bằng các biện pháp quản lí, bằng vaccin.

Tình hình giun sán ở Việt Nam.

Phân bố bệnh giun sán:

Ở nước ta bệnh giun trầm trọng hơn bệnh sán, trầm trọng ở mức độ nhiễm cao, diện nhiễm rộng. Từ Bắc vào Nam ở cả 4 vùng: đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển đều có tỉ lệ bệnh giun đũa, giun móc/mỏ, giun tóc cao. Đặc biệt là ở vùng có mật độ dân cư lớn như đồng bằng, ở các địa phương còn có phong tục ăn các món ăn có thịt lợn, thịt trâu bò chưa nấu chín. Theo thống kê mới nhất vào năm 2004 cho thấy:

Các bệnh sán lá gan nhỏ đã phát hiện được ở 21 thành thị trong cả nước, thường tụ họp ở các vùng dân cư ven biển có tập quán ăn cá gỏi và làm hố xí xuống ao. hiện thời bệnh sán lá gan nhỏ còn có tỉ lệ cao ở một số vùng thuộc các tỉnh đồng bằng, ven biển (Ninh Bình 70%, Nam Định 80,4%, Thanh Hoá 67,9%, Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận…).

Bệnh sán lá gan lớn hiện gặp ở 30 tỉnh trong cả nước, tuy nhiên tỉ lệ gặp nhiều nhất ở các tỉnh Trung Bộ như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh

Hoà... do tập quán ăn rau sống có nguồn cội mọc ở dưới nước như rau ngổ, ngó sen...

Bệnh sán lá phổi thường gặp ở những nơi có phong tục ăn cua, tôm nướng như Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La…

Bệnh sán xơ mít lợn, sán dây bò thường gặp tản mạn ở các vùng miền núi, trung du (giờ toàn quốc đã có ở 49 đô thị như Lai Châu, Lào Cai, Hoà Bình, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Nam Định, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắc, Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh, Kiên Giang…).

Bệnh do ấu trùng sán dây lợn đã có mặt ở 30 tỉnh trên toàn quốc như: Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá…

Tác hại của bệnh giun sán ở Việt Nam:

Bệnh giun sán đã gây ra những thiệt hại to lớn không những về sức khoẻ, tính mệnh của người bệnh mà còn gây thiệt hại lớn lao về vật chất của gia đình và từng lớp. Nhìn chung bệnh giun sán có tác hại với phần nhiều người một cách âm thầm và lâu dài cũng giống như các bệnh kí sinh trùng khác.

Bệnh giun sán gây tác hại tới mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là tác hại ở lứa tuổi trẻ thơ. Nhiễm giun đũa có thể gây tắc ruột, lồng ruột và thủng ruột do nhiều giun hoặc do đổi thay pH ở ruột. thỉnh thoảng giun đũa có thể chuyển di lạc chỗ lên ống mật, ruột thừa, lệ đạo, thậm trí vào tim gây ra những bệnh cảnh tại đặc biệt như viêm ống mật, viêm ruột thừa, cơ tim…

ngoại giả giun đũa, giun kim đang gây ra tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em giờ. Bệnh giun móc/mỏ gây tình trạng thiếu máu.

Bệnh giun chỉ đã giảm tỉ lệ người mắc, nhưng cá biệt một số vùng trong nước nhân dân vẫn còn mắc bệnh giun chỉ dẫn đến hiện tượng phù voi, đái ra dưỡng chấp (Hưng Yên, Khánh Hoà).

Các bệnh sán tuy là ít người mắc so với bệnh giun, nhưng bệnh sán như sán lá gan, sán lá phổi vẫn còn tồn tồn tại và vẫn có thể dẫn tới tử vong. Bệnh ấu trùng sán xơ mít lợn ở não có thể dẫn tới tử vong.

Các kế hoạch phòng bệnh giun sán ở nước ta:

Bệnh giun sán là một bệnh mang tính từng lớp, nên vấn đề phòng chống tiến tới khống chế bệnh là phải mang tính tầng lớp, công việc của toàn cộng đồng.

Gần đây người ta đã điều chế được các loại thuốc diệt giun sán có hiệu quả cao, ít độc, giá thành hạ. Kết quả đó đã tạo cho việc tấn công hạ được tỉ lệ giun sán dễ dàng hơn trước.

Tuy nhiên thực chất của bệnh giun sán có hệ trọng chặt tới môi trường sống. trước nhất ở nước ta là vấn đề quản phân, vấn đề cầu tiêu, vấn đề dùng phân người làm phân bón. Nếu các vấn đề trên còn tồn tại sẽ gây ô nhiễm môi trường, cung cấp nước sạch và săn sóc sức khoẻ ban đầu. Đối tượng cần quan hoài hàng đầu là vùng nông thôn và lứa tuổi trẻ nít.

Phân loại.

Ngành phụ giun tròn- Nematodes:

Ngành phụ giun tròn có một lớp: Nematoda . Lớp này chia ra hai lớp phụ:

Lớp phụ Phasmidia.

Những thần kinh có cảm giác ở đuôi và chia ra các bộ: - Ascaridia ( giun đũa, giun kim).

Rhabditida (giun móc, giun lươn).

Spirudida (giun chỉ).

Lớp phụ Aphasmidia.

Những loại giun không có tâm thần cảm giác ở đuôi, có các bộ:

Enoplida (giun soắn).

Trichocephalata (giun tóc).

Ngành phụ giun dẹt - Platodes:

Được chia ra thành các lớp sau:

Lớp sán lá - Trematoda.

Sán lưỡng giới:

Lỗ sinh dục ở trước bụng:

Hai nhánh tiêu hoá chia thành nhiều nhánh nhỏ, dịch hoàn và buồng trứng chia nhiều nhánh nhỏ: Fasciolidae.

Hai nhánh tiêu hoá đơn, không chia nhánh:

tinh hoàn ở trước buồng trứng : Dicrocoelidae .

dịch hoàn ở sau buồng trứng: Ospisthorchidae.

Lỗ sinh dục ở sau giác bụng: Troglotrematidae (sán lá phổi).

Sán phân giới: Schistosomatidae (sán máu).

Lớp sán dây - Cestoda. Có hai bộ:

Bộ Cyclophyllidae : đầu có 4 giác, tử cung bịt kín, có một vật chủ phụ, ấu trùng có nang.

Bộ Pseudophyllidae : đầu có 2 rãnh, tử cung có lỗ đẻ, có 2 vật chủ phụ, ấu trùng hình sâu.

Ngành phụ giun đốt:

Ngành giun đốt có nhiều lớp trong đó có lớp đỉa, vắt ( Hirudinea ) có liên can đến y học.

Artikel Terkait

Back To Top