Ancylostomidae- Giun móc và giun mỏ
Giun móc và giun mỏ thuộc họ Ancylostomidae , thường có tên chung là giun móc. Bệnh giun móc/mỏ đã được y văn cổ thế giới trình diễn.# cách đây 2.400 năm. Năm 1838, Dubini tìm ra căn nguyên gây bệnh là Ancylostoma duodenale ( A.duodenale) và năm 1902 Stiles phát hiện loài thứ hai là Necator americanus (N.americanus). A . duodenale thuộc giống Ancylostoma, miệng có răng hình móc, phân bố nhiều ở châu Âu, Tây Nam Á. N. americanus thuộc chi Necator , miệng có những tấm răng, phân bố nhiều ở châu Phi nhiệt đới, châu Mĩ.
Nhưng trong những thập kỉ vừa qua, cả 2 loại giun này có sự phân bố rộng rãi khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới. Đường ranh giới phân bố 2 loại giun này có khác nhau về đặc điểm hình thể, vòng đời sinh học, nhưng có nhiều đặc điểm giống nhau về hình thái, bệnh học, phòng chống.
Ngoài 2 loại giun đã nêu trên, người có thể bị nhiễm giun móc Ancylostoma ceylanicum (A.ceylanicum) , tuy không phổ quát nhưng rất đáng quan hoài ở một số nơi: Trung Quốc, Đông Nam Á,... Giun móc A.ceylanicum thường gây bệnh ở chó, mèo, vòng đời sinh học gần giống như A. duodenale .
Ở Việt Nam, bệnh giun móc rất nặng nề, cả về tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, giun N.americanus phổ thông hơn khoảng 90%, giun A.duodenale khoảng 10%.
Tuy nhiên hồ hết các cơ sở y tế nước ta chưa có điều kiện phân biệt 2 loại giun này. Trên thế giới có khoảng 1.297 triệu người nhiễm (1994), ở Việt Nam có khoảng 40 triệu người nhiễm (1994).
Hình 10.11 : Bản đồ phân bố tình hình nhiễm giun móc/mỏ trên thế giới.
Đặc điểm hình thể.
Giun móc/mỏ trưởng thành:
Giun móc A. duodenale :
Màu trắng sữa hoặc hồng, kích tấc giun đực 7 - 10 x 0,5 mm, giun cái 10-15 x 0,6 mm.
Đầu có bao miệng hơi phình và cong, miệng có 2 đôi răng hình móc, bố trí cân đối, mỗi bên một vài.
Thực quản tiếp theo miệng, chiếm 1/6 chiều dài thân, hình ống, nối với ruột, chạy về phía sau, hậu môn đổ ra phía bụng, gần cùng tận đuôi.
Cơ quan sinh dục cái có buồng trứng, hai ống đổ chung vào sinh dục ở 1/3 giữa thân về phía bụng.
Cơ quan sinh dục đực: gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh, tới lỗ sinh dục đực ở lỗ đít, có 2 gai sinh dục.
Đuôi xoè rộng ra, có cốt cứng như bàn chân ếch. Cốt này có những đặc điểm đặc hiệu giúp cho phân loại giun móc.
Giun móc cũng có hệ thống thần kinh, hệ bài xuất. Đặc biệt để ý các hạch đầu, bụng, lỗ đít. Hai hạch tiết ở đầu có hệ trọng tới việc tiết ra các chất chống đông máu, tan rữa mô, tổ chức.
Giun mỏ N. americanus :
Nhìn đại thể khó phân biệt với giun móc Ancylostoma , nhưng vẫn có những đặc điểm khác biệt.
Thân giun N. americanus ngắn, mảnh hơn.
Miệng giun Necator hơi tròn, không có móc, thay vào vị trí đó là những tấm răng hình bán nguyệt sắc bén.
Hình 10.12 : Hình thể giun móc/mỏ trưởng thành.
A: Giun đực; B: Giun cái; C: Ấu trùng.
D và E: Miệng giun móc và giun mỏ.
Có thể phân biệt 2 loại giun theo bảng sau:
Đặc điểm |
Ancylostoma duodenale |
Necator americanus |
kích tấc giun cái |
9 - 15 mm |
8 - 13,5 mm |
kích tấc giun đực |
7 - 10 mm |
5 - 10 mm |
hình dáng |
Thân đầu cong về lưng |
Thân đầu cong về bụng |
Bao miệng |
Hai đôi răng phía bụng hình móc, hai đôi răng phía lưng thoái hoá |
Hai tấm răng phía bụng, răng phía lưng phát triển |
Vị trí lỗ sinh dục cái |
1/2 sau thân |
1/2 trước thân |
Đuôi giun cái |
Có gai |
Không có gai |
Đuôi giun đực |
Bao rộng, ngắn, cốt lưng có 3 nhánh, nhánh giữa tách đôi thành 2 nhánh con |
Bao hẹp, dài, cốt lưng có 4 nhánh, 2 nhánh giữa tách đôi thành 4 nhánh con |
Hai gai sinh dục |
Đầu nhọn rời nhau |
Đầu gai có ngạnh dính vào nhau. |
Hình thể trứng:
thường nhật thì rất khó phân biệt trứng giun A.. duodenale và trứng giun N.americanus , trứng hình trái soan, vỏ mỏng, trong suốt, không màu, khi mới sinh đã phân cắt thành 4 - 6 phần. Nhìn chung, trứng giun Necartor dài, thon hơn trứng giun Ancylostoma . kích thước trứng Necator khoảng 70µm, trứng giun Ancylostoma khoảng 60µm.
Hình thể ấu trùng:
Rất khó phân biệt ấu trùng của giun Ancylostoma và Necator .
Ấu trùng tuổi I (Larva rhabditiform): kích tấc khoảng 250 x 17µm, phát triển khoảng 3 ngày, thực quản phần đầu hơi phình gọi là củ trước, phần giữa hẹp, phần cuối có ụ phình tròn, hình củ hành gọi là củ sau, ấu trùng tuổi I còn gọi là ấu trùng có thực quản hình củ.
Hình 10.13 : Hình thể trứng giun móc/mỏ ( A.duodenale / N.americanus ).
Ấu trùng tuổi II: phát triển chừng 5 ngày, thực quản chuyển thành hình trụ, mất ụ phình, chưa có khả năng chui qua da.
Ấu trùng giai đoạn III (Larva filariform): kích thước 550 60 m, có khả năng xuyên qua vật chủ.
Đặc điểm sinh vật học.
Vòng đời của 2 loại A.duodenale và N.americanus không hoàn toàn giống nhau. Có những điểm khác biệt quan trọng. Giun Necator chỉ lây qua đường da. Cũng có tác giả nêu rất hiếm thấy qua đường tiêu hoá. Giun Ancylostoma lây truyền cả qua đường tiêu hoá cả qua đường da, nhưng nhiễm qua đường tiêu hoá là chủ yếu. Vòng đời sinh học của giun Ancylostoma lây qua đường da giống như giun Necator.
Vòng đời các loại giun móc lây nhiễm qua đường da:
Vị trí kí sinh:
Giun móc kí sinh ở tá tràng, nếu số lượng giun nhiều có thể thấy giun móc kí sinh cả phần đầu và phần giữa của ruột non. Giun móc ngoạm vào niêm mạc ruột để chiếm thức ăn và chống lại nhu động ruột. Cả giun đực và giun cái trưởng thành đều sống kí sinh.
Dinh dưỡng của giun móc:
Theo Wel (1931), quan sát giun móc chó: thấy giun móc ngoạm vào niêm mạc ruột hút máu và thải máu ra hậu môn giun sau 1- 4 phút. Theo vắng kĩ thuật của Tổ chức Y tế thế giới (1982): một giun móc A.duodenale hút 0,16 - 0,34 ml máu/ngày, một giun N.americanus hút 0,03 - 0,05 ml máu/ngày.
Giun móc ăn máu, ăn hồng huyết cầu, huyết sắc tố, ăn sắt trong hồng huyết cầu và cả sắt huyết thanh, axit folic, protein huyết thanh... Giun móc có nhu cầu dùng protein huyết thanh nhiều hơn hồng cầu. Những chất dinh dưỡng giun móc chiếm của vật chủ là những chất đã đồng hoá.
Vòng đời sinh học:
Sau khi giao hợp, giun cái đẻ trứng ở ruột non, một giun cái Ancylostoma đẻ 30.000 trứng/ngày đêm, một giun cái Necator đẻ 9.000 trứng/ngày đêm. Trứng theo phân ra ngoài chịu ảnh hưởng của các nguyên tố nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... của ngoại cảnh, phát triển thành ấu trùng.
Ấu trùng lúc đầu có kích tấc 0,2 - 0,3 x 0,017 µm, đầu hơi tù, đuôi nhỏ, thực quản có ụ phình. Ấu trùng giai đoạn I sống trong đất, lớn nhanh, ăn các chất hữu cơ ở đất. Sau khoảng 3 ngày, lột thành ấu trùng giai đoạn II, thực quản phần trên hình trụ, phần dưới hình củ. Ấu trùng thời đoạn II phát triển chừng 5 ngày, thực quản chuyển thành hình trụ mất ụ phình, bóc lần thứ 2 để chuyển thành ấu trùng tuổi III, có khả năng chui qua da vật chủ vào cơ thể, ấu trùng tuổi III có hướng động đặc biệt để tìm vật chủ, có thể sống tới 6 tuần ở đất, ấu trùng thời đoạn III không ăn uống gì, di chuyển bằng năng lượng dự trữ, ấu trùng ưa nơi đất cát, nhiệt độ ăn nhập 28 - 32°C.
Sau khi chui qua da thâm nhập vào cơ thể vật chủ, ấu trùng theo đường tĩnh mạch tới tim phải rồi tới phổi, ấu trùng chọc thủng mao quản vào phế nang, theo khí quản lên họng, đến thực quản, xuống bao tử, ruột phát triển thành giun trưởng thành, kí sinh ở tá tràng hoặc ruột non. Từ ấu trùng tuổi III phát triển thành giun trưởng thành phải sang 2 lần lột vỏ thành ấu trùng tuổi IV (cần 3 - 7 ngày), thành ấu trùng tuổi V (cần khoảng 13 ngày), ấu trùng thời đoạn V cần 3 - 4 tuần mới phát triển thành giun trưởng thành.
Như vậy thời đoạn phát triển ở ngoại cảnh và tuổi kí sinh, ấu trùng qua 5 lần lột vỏ. thời gian hoàn thành vòng đời cần 5 - 7 tuần, có tuổi ấu trùng du lãm trong thân như giun đũa.
Gần đây người ta đã chứng minh: trong vòng đời sinh học của giun móc Ancylostoma truyền nhiễm qua đường da, ấu trùng có thời đoạn ngủ (thời kì nằm yên) ở tổ chức của vật chủ. thời đoạn ngủ có thể kéo dài tới 8 tháng, đây là một tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu sinh học giun móc.
Tới nay vẫn chưa hiểu biết hết những biến đổi của ấu trùng giun móc trong tuổi ngủ, ấu trùng giun móc ở thời đoạn ngủ kháng lại với hầu hết các thuốc, các hoá chất đặc hiệu điều trị giun móc. Sau thời gian ngủ ấu trùng lại tiếp tục phát triển để hoàn thành vòng đời. Hiện tượng ngủ của ấu trùng giun móc cũng có thể xảy ra ở cơ của các động vật có vú khác, do vậy gợi ý có thể nhiễm giun móc do ăn thịt sống, chưa nấu chín.
Người ta đã chứng minh bằng thí điểm gây nhiễm ấu trùng giun móc vào động vật mồi, rồi cho chó ăn thịt động vật mồi, ấu trùng giun móc đấu phát triển thành giun trưởng thành ở chó.
Qua nhiều nghiên cứu gây nhiễm thực nghiệm, người ta thấy không phải sờ soạng các ấu trùng giun móc Ancylostoma đều có tuổi ngủ. Có những ấu trùng giun móc Ancylostoma sau khi chu du trong thân thể, đến thẳng ruột phát triển thành giun trưởng thành. Nhưng một số ấu trùng có thời đoạn ngủ ở tổ chức trước khi di chuyển tới phổi và ruột.
Hạn định đời sống của giun Necator : 10 - 15 năm, giun Ancylostoma ngắn hơn: 5 - 7 năm.
Vòng đời của giun móc lây qua đường tiêu hoá:
Vòng đời của giun móc lây qua đường tiêu hoá có nhiều điểm dị biệt quan trọng so với vòng đời giun móc lây qua đường da, ấu trùng giun móc Ancylostoma có thể theo thực phẩm tươi sống, rau quả... nhiễm qua đường ăn uống. Khi nhiễm qua đường này, ấu trùng không có thời đoạn du ngoạn trong thân. Ấu trùng xuống thẳng ruột non chui vào niêm mạc ruột, phát triển ở đó rồi chui ra lòng ruột, phát triển thành giun trưởng thành.
Vai trò y học.
biểu đạt lâm sàng của bệnh giun móc/mỏ có nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào rất nhiều nhân tố như chừng độ nhiễm nhiều hay ít, người sống ở trong hay ngoài vùng lưu hành bệnh giun móc hoặc chế độ ăn uống... Nói chung nếu cường độ nhiễm thấp, diễn đạt lâm sàng không rõ rệt, nếu nhiễm nhiều giun, có thể gây ra các triệu chứng lâm sàng đáng kể, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, khả năng lao động của bệnh nhân.
Bệnh của ấu trùng:
tuổi ấu trùng qua da:
Khi ấu trùng chui qua da (thường thấy nhất ở vùng da mu bàn chân, các kẽ ngón tay, kẽ ngón chân), ấu trùng gây ra những nốt mẩn đỏ, ngứa ngáy rất khó chịu đó là trình bày viêm da. Còn gọi là “ngứa do đất”, ngứa rất nhiều, có ban đỏ, phù nề, về sau thành nốt mọng nước. Thường diễn biến 3 - 5 ngày rồi tự hết, nhưng cũng có thể kéo dài tới 2 tuần lễ. Ở vùng có giun móc/giun mỏ lưu hành thì biểu lộ này thường dễ bị bỏ qua hoặc hiếm thấy.
giai đoạn ấu trùng qua phổi:
Khi ấu trùng giun móc qua phổi cũng gây bộc lộ bệnh lí giống ấu trùng giun đũa. ấu trùng giun móc ở phổi sẽ kích thích phổi gây ho, có thể đờm có lẫn máu, có thể sốt bất thường, khó thở như hen, chụp phổi có thể thấy tiêm nhiễm nhẹ giống lao. Các triệu chứng chỉ tồn tại vài ngày rồi tự hết (hội chứng Loeffler).
Bệnh của giun trưởng thành:
Giun móc trưởng thành dùng răng ngoạm vào thành ruột để hút máu. Gây nên những biểu đạt lâm sàng toàn thân, rối loạn tiêu hoá, rối loạn về máu và tuần hoàn, rối loạn thần kinh...
để ý các triệu chứng sau:
Mất sắc tố ở da:
Ở những bệnh nhân da đen, màu da lúc đầu nhạt nhưng bắt đầu sẫm trở lại sau khi được điều trị bằng sắt. Ở những bệnh nhân có albumin máu thấp, miêu tả mất sắc tố trầm trọng hơn. Trong thiếu máu do giun móc thấy có 2 loại mất sắc tố. Một loại do thiếu sắt hầu như lúc nào cũng có và khỏi trước khi hết thiếu máu. Loại kia kèm theo thiếu albumin. Chỉ chữa khỏi mất sắc tố sau khi đã điều trị khỏi thiếu máu, thiếu albumin . thỉnh thoảng có thể thấy thay đổi màu sắc, cách sắp xếp của tóc hoặc sưng tuyến mang tai...
Rối loạn tiêu hoá:
Triệu chứng này xuất hiện sớm nhất, thỉnh thoảng thấy xuất hiện trước trứng giun móc có trong phân. biểu thị rối loạn tiêu hoá thường gặp: biếng ăn, các cơn đau bụng vùng thượng vị không có giờ giấc khăng khăng. Trên X quang có thể thấy hình ảnh viêm loét tá tràng. Bệnh nhân gầy sút, phân lẫn máu đen, dần dần có thể xuất hiện hội chứng lị...
Rối loạn về máu và tuần hoàn:
Trên lâm sàng: da, niêm mạc nhợt nhạt, thường thấy phù nhẹ ở mặt và thuộc hạ, tim có tiếng thổi tâm thu cơ năng...
Xét nghiệm: thấy huyết cầu tố giảm 40 - 20% hoặc thấp hơn; hồng cầu có thể dưới 1 triệu/ml máu, có hồng cầu biến dạng; bạch huyết cầu ái toan tăng cao, có thể trên 60%, nhất là khi mới nhiễm. Những bệnh nhân ở vùng lưu hành bệnh giun móc, thẳng thớm bị tái nhiễm, biểu đạt tăng bạch cầu ái toan chẳng thể hiện rõ. Những người bị nhiễm giun móc nhiều lần, trong thời kì 5 năm, thấy có sự tăng immunoglobulin IgE huyết thanh: 0,12 - 0,735 g/l. Rối loạn về máu và tuần hoàn có thể gây ra một số bệnh lí sau:
Thiếu máu do giun móc:
Bệnh sinh thiếu máu do giun móc phụ thuộc vào các nguyên tố: lượng sắt trong khẩu phần ăn uống, tình trạng dự trữ sắt, cường độ và thời gian của bệnh.
Những yếu tố này thay đổi tùy theo từng nước, từng khu vực, nhưng cần phải được đánh giá đúng mức, trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ: ở Nigeria, lượng sắt trong khẩu phần ăn cao (21 - 30 mg/ngày), ở đây chỉ khi bị nhiễm nặng trên 800 giun móc/người mới có miêu tả thiếu máu nhược sắc. Ở Maritius, lượng sắt trong khẩu phần ăn của mỗi người hàng ngày thấp (5 - 10 mg), ở đây khi bị nhiễm giun móc nhẹ, làng nhàng cũng có thể bị thiếu máu nặng.
Quan niệm về vị trí bị giun móc hút máu vẫn tiếp tục chảy máu sau khi giun đã chuyển di không được các nhà mô học ủng hộ, họ cho rằng máu sẽ ngừng chảy, sau khi giun di chuyển. Hiện vẫn chưa đủ cơ sở khoa học để chứng minh độc tố của giun móc gây ức chế cơ quan tạo máu, dẫn đến thiếu máu.
Qua nghiên cứu bằng chất phóng xạ kép, người ta thấy một phần lượng sắt của thân thể bị giun móc ăn, rồi bài xuất ra ở tá tràng và phần trên ruột non lại được tái tiếp thu trong ống tiêu hoá, tỉ lệ tái thu nạp tăng lên khi bệnh nhân bị thiếu sắt.
Ở một số nước vùng nhiệt đới, có tình trạng thiếu máu do giun móc kèm theo thiếu axit folic. Tình trạng thiếu axit folic thường bị che khuất do tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Bệnh sinh của thiếu axit folic ở bệnh giun móc có thể do nhiều yếu tố khác nhau: do kém hấp thu axit folic, hoặc do thiếu axit folic trong khẩu phần ăn, do nhu cầu axit folic tăng ở bệnh giun móc...
Tình trạng thiểu năng albumin máu:
Trong bệnh giun móc, sự giảm protein máu là một tả bệnh lí quan yếu, sự mất protein do giun móc lớn hơn mất hồng huyết cầu. Ở bệnh nhân giun móc khả năng tổng hợp protein cũng bị hạn chế. Albumin máu giảm, thường kèm theo trình bày phù nề. Điều trị phù nề không có kết quả bằng các thuốc lợi tiểu có thủy ngân, ngay cả sau khi đã hết thiếu máu. Nhưng phù nề sẽ hết nhanh sau khi điều trị đặc hiệu giun móc có kết quả.
Các trình bày bệnh lí khác:
Ở trẻ con: chậm lớn, còi cọc, chậm phát triển về trí tuệ, tinh thần.
Ở đàn bà: có thể bị ảnh hưởng đến kinh nguyệt.
Ở người lớn: có các biểu đạt rối loạn tâm thần như giảm trương lực cơ, nhức đầu, kém trí tưởng, suy sụp tinh thần. Trường hợp nặng kéo dài, có thể giảm hoặc mất phản xạ, bại, cũng có thể bị giảm nhãn lực.
Chẩn đoán.
tuổi ấu trùng di chuyển: có thể tìm thấy trứng giun móc trong đờm.
tuổi giun trưởng thành:
Xét nghiệm phân tìm trứng giun móc: cho phép chẩn đoán quyết định, độ tin cậy cao. Có thể xét nghiệm phân trực tiếp, kết hợp với các phương pháp hội tụ trứng (Fulleborn...). để ý khi xét nghiệm chẩn đoán giun móc cần phải xét nghiệm sớm, không để bệnh phẩm quá 24 giờ, trứng có thể nở thành ấu trùng ra ngoài, rất khó phân biệt với ấu trùng các giun khác.
Nuôi cấy ấu trùng giun móc trong ống nghiệm, cần chú ý phân biệt với ấu trùng giun lươn.
Đãi phân để chẩn đoán giun móc trên giun trưởng thành. Phương pháp này thường chỉ áp dụng ở các cơ sở nghiên cứu, để đánh giá hiệu quả của các thuốc đặc hiệu hoặc điều tra thành phần loài.
Phương pháp miễn nhiễm học được vận dụng trong điều tra dịch tễ học hàng loạt. Kháng nguyên được điều chế từ giun móc người hoặc giun móc chó.
Điều trị.
Nguyên tắc điều trị giun móc: kết hợp điều trị đặc hiệu với điều trị thiếu máu, thiếu sắt, thiếu axit folic và protein máu. phối hợp điều trị với điều chỉnh chế độ ăn, dinh dưỡng bảo đảm cung cấp đủ sắt, vitamin...
Thuốc đặc trị giun móc:
Tetrachloroethylen (C 2 Cl 4 ) (biệt dược didaken) có tác dụng tốt với giun mỏ, nhưng rất độc cho gan thận nên hiện ít dùng.
Alcopar (hydroxynaphtoat, bephenium): có tác dụng tốt với giun móc, tác dụng tốt với cả giun đũa, giun kim, giun tóc... Người lớn uống1 lần 5g, không cần thuốc tẩy. con nít dưới 22 kg uống 1/2 liều người lớn. Uống vào buổi sáng, chưa ăn với nước đường ấm.
Mebendazole (vermox, fugacar...): cũng có tác dụng điều trị giun móc, ít độc, có tác dụng với nhiều loại giun, liều dùng điều trị giun móc hơn liều điều trị nhiễm giun phối hợp. Theo Lê Bách Quang, Trịnh Trọng Phụng (1986): để điều trị giun móc nên dùng liều: 200mg/ngày, chia 2 lần, uống 6 ngày liền, không cần tẩy, sau khi ngừng thuốc 8 - 10 ngày vẫn còn thấy giun móc bị thải ra theo phân.
Tinh dầu giun (olium chenopodium): có trên 60% tinh chất ascaridol cũng có tác dụng điều trị giun móc.
Albendazole: hiện giờ được coi là một trong những thuốc có hiệu lực nhất điều trị giun móc.
Dịch tễ học và gian.
Dịch tễ học:
Bệnh giun móc/mỏ phổ quát ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, châu Á, Nam và Trung Mĩ, châu Phi… Theo thông báo của WHO (năm 1993): trên thế giới có khoảng 900 triệu người mắc bệnh giun móc/mỏ và khoảng 60.000 người chết hàng năm; các nước có tỉ lệ nhiễm cao như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam...
Ở các nước xứ lạnh bệnh phát triển ở các vùng mỏ than ở dưới mặt đất. Ở đây có nhiệt độ và độ ẩm phù hợp, phù hợp với đời sống sinh hoạt của công nhân các mỏ than. Tuy nhiên hiện nay do điều kiện lao động của công nhân mỏ than được cải thiện nhiều nên bệnh này cũng giảm nhiều.
Ở các nước nhiệt đới, bán nhiệt đới bệnh giun móc/mỏ có liên tưởng tới dân cày: ở những nơi trồng mía, trồng dâu nuôi tằm (Trung Quốc), trồng thuốc lá (các nước Đông Nam Á).
Ở Việt Nam, trong 2 loại giun móc và giun mỏ thì giun mỏ chiếm 95%, giun móc chiếm 5% trong tổng số người nhiễm.
Miền Bắc:
Đồng bằng: 3 - 60%.
Trung du: 59 - 64%.
Miền núi: 61%.
Ven biển: 67%.
Miền Trung:
Đồng bằng: 36%.
Miền núi: 66%.
Ven biển: 69%.
Miền Nam:
Đồng bằng: 52%.
Ven biển: 68%.
(Số liệu của Viện Sốt rét - KST - CT Trung ương, 1998).
Tỉ lệ nhiễm giun móc phụ thuộc vào nghề, tuổi, giới: nông dân, công nhân vùng mỏ có tỉ lệ nhiễm cao, tuổi càng cao tỉ lệ nhiễm càng cao, phụ nữ nhiễm cao hơn nam giới. nguyên do do sự ô nhiễm trứng giun tùy thuộc vào môi trường.
Kết quả điều tra sự ô nhiễm ấu trùng giun móc/mỏ ở ngoại cảnh miền Bắc Việt Nam cho thấy:
Đồng bằng: 100 - 140 ấu trùng/100 gam đất.
Trung du: 8 - 35 ấu trùng /100 gam đất.
Miền núi: 0,2 - 0,7 ấu trùng/100 gam đất.
Ngoài ra tỉ lệ mắc nhiễm giun móc/mỏ còn phụ thuộc vào các nguyên tố:
nghề nghiệp: đặc biệt trầm trọng ở các vùng trồng rau, hoa màu.
Thổ nhưỡng: tỉ lệ nhiễm giun móc cũng khác nhau và phân vùng theo điều kiện thổ nhưỡng, miền cao hay miền sông nước, nghề. Tỉ lệ ở miền Bắc khoảng 30 - 40%, miền Nam khoảng 10 - 20%. chủ yếu tụ hội ở những người trồng hoa màu, cây ăn trái, cà phê, công nhân cạo mủ cao su, công nhân hầm lò, công nhân nông trường mía. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có tỉ lệ nhiễm thấp. Các tỉnh miền Đông Nam Bộ tỉ lệ nhiễm cao, có nơi đến 50% người được điều tra phát hiện có mang giun móc trong người. Vùng đất cát ven sông, ven biển là vùng thuận lợi cho ấu trùng phát triển tới giai đoạn III ở ngoại cảnh. Ở nước ta tỉ lệ người nhiễm giun móc/mỏ ở từng vùng có khác nhau. Nói chung vùng đồng bằng ven biển, vùng trồng rau màu, các bãi bồi ven sông, vùng hầm mỏ... có tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ cao, cường độ nhiễm nặng.
Vấn đề vệ sinh môi trường: tình trạng cầu tiêu, việc dùng phân người để bón cho hoa màu.
Giun mỏ là loại giun gặp đẵn ở các vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Còn các xứ ôn đới gặp chủ yếu là giun móc. Ở Đông Nam Á nhiều nước còn tìm thấy ngoài hai loại trên còn có Ancylostoma ceylanicum. Ở nước ta chưa tìm thấy loài này kí sinh ở người.
Nguồn bệnh:
Từ những người mắc bệnh giun móc/mỏ.
Mầm bệnh:
Nguồn bệnh luôn thải trứng giun móc ra ngoại cảnh. Ở điều kiện tiện lợi, đủ độ ẩm, oxy, nhiệt độ hiệp: 25 - 30C, sau 25 giờ, trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng phát triển ở ngoại cảnh tới tuổi có thể lây truyền được. Ấu trùng giun móc ở thời đoạn này thích ứng với sự quãng vật chủ, chúng không bò ngang quá 30 cm nhưng có thể bò cao quá 1 m, ấu trùng luôn tìm đến các vị trí cao nhất xung quanh nguồn phân. Ở điều kiện nhiệt đới ấu trùng có thể sống được tới 6 tuần, ở điều kiện thuận tiện ấu trùng có thể sống được18 tháng. Những chỗ đất xốp, đất màu, đất cát, đất bụi than ở mỏ, đất mùn rác quanh nhà ở... là nơi tiện lợi cho ấu trùng sống và phát triển. Ánh sáng ác vàng, cấu tạo khoáng chất của đất không hợp, làm ấu trùng dễ chết, ấu trùng không sống được trong nước, chết nhanh trong nước giải.
Đường lây:
chính yếu qua đường da, phụ qua đường tiêu hoá. Ở vùng lưu hành: điều kiện vệ sinh kém cỏi, có tập quán dùng phân người tươi, chưa xử lí để trồng tỉa, chăn nuôi; phóng uế phứa, thú vật thả rông, lợn ăn phân người... Mầm bệnh giun móc không phát triển ở động vật nhưng cũng không chết, chúng lại được thải ra môi trường, tạo cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề.
Người cảm thụ:
tuốt tuột mọi lứa tuổi đều mắc giun móc. Đối tượng nào tiếp xúc với phân nhiều thì có tỉ lệ nhiễm giun móc cao. Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm giun móc ở nữ giới nông thôn cao hơn ở các đối tượng khác.
phòng chống:
Công việc buồng bệnh giun móc phải tiến hành có quy mô, phối hợp với các biện pháp y học với cải tiến kĩ thuật canh tác, cơ khí hoá nông nghiệp, thay đổi tập quán sinh hoạt. Mọi thế phòng bệnh giun móc hiện giờ cần giao hội vào những vùng nhiễm giun móc nặng. Các biện pháp điều trị hàng loạt, điều trị chọn lọc bệnh giun móc rất có hiệu quả, chừng độ tái nhiễm giun móc thấp hơn nhiều so với chừng độ tái nhiễm bệnh giun đũa.
phòng chống bệnh cần lưu ý:
Phát hiện, điều trị bệnh nhân để hạn chế nguồn bệnh.
Xử lí tốt nguồn phân, bằng các hiên hợp quy cách vệ sinh: chuồng tiêu thấm dội nước kiểu Sulav, nhà tiêu Biogaz, hố xí tự hoại, bán tự hoại...
Cần giáo dục tinh thần vệ sinh, kiến thức buồng bệnh giun móc. Nhiều nơi dù có đủ hành lang đúng quy cách vệ sinh, nhưng trẻ con vẫn phóng uế cực kì.
Làm sạch ngoại cảnh: diệt trứng, ấu trùng giun móc bằng cách rắc vôi bột, muối ở chỗ đất ô nhiễm nặng (thí dụ: xung quanh chuồng xí, nguồn phân).
Phòng tránh nhiễm ấu trùng giun móc ở nơi có tỉ lệ nhiễm cao bằng cách hạn chế xúc tiếp với đất, phân, không ngồi, nằm đất, khi lao động xúc tiếp với phân, đất, nên đi ủng cao su, hoặc các trang thiết bị bảo vệ da.
