Bệnh thalassemia thể trung gian và HbE
Định nghĩa
Kiểu hình lâm sàng của thalassemia thể trung gian nằm giữa thể nhẹ (dị hợp tử) và thể nặng (đồng hợp tử), mặc dầu nhiều đặc điểm lâm sàng có thể trùng lắp giữa ba thể trên. Năm 1955, lần đầu tiên Rietti-GreppiMicheli dùng từ thalassemia thể trung gian để biểu đạt những bệnh nhân - về mặt huyết học - chưa đủ để gọi là thể nặng nhưng cũng chẳng thể gọi là thể nhẹ.
Thalassemia thể trung gian có đặc điểm lâm sàng đa dạng. Bệnh luôn thể nhẹ hoàn toàn không có triệu chứng cho đến lớn; hoặc chỉ trình diễn.# thiếu máu nhẹ với mức Hb từ 7-10 g/dL. Những bệnh nhân này chỉ cần truyền máu vài lần. Bệnh nhân thể nặng hơn thường có diễn đạt lâm sàng từ 2-6 tuổi, mặc dầu bệnh nhân có thể sống mà không cần truyền máu bộc trực, nhưng sự tăng trưởng và phát triển có thể chậm. Do đặc điểm lâm sàng đa dạng của thalassemia thể trung gian nên việc điều trị cũng tùy trường hợp cụ thể. Dù có nhiều phương pháp điều trị để chọn lựa nhưng sự thiếu hụt phác đồ hướng dẫn cụ thể được xem là một thách thức đáng kể trong lâm sàng (Taher, 2006; Camaschella và Cappellini, 1995).
Cơ chế sinh bệnh của thalassemia thể trung gian
Sinh bệnh học của thalassemia dựa trên sự mất thăng bằng tổng hợp chuỗi globin. Trong β-thalassemia thể trung gian, sự mất cân bằng thấy rõ hơn so với thể nhẹ nhưng lại ít hơn so với thể nặng. hồ hết bệnh nhân thalassemia thể trung gian là β-thalassemia thể đồng hợp tử hoặc phức hợp dị hợp tử, tức thị cả hai locus của gen chuỗi β-globin đều bị ảnh hưởng. tả lâm sàng của thalassemia thể trung gian nhẹ so với thalassemia thể nặng đốn là do ba cơ chế sau:
Di truyền của đột biến β + nhẹ;
Hiện diện polymorphism của enzyme Xmn-I tại vùng hoạt hóa Gγ, hệ trọng đến việc gia tăng HbF; và
Đồng di truyền của α-thalassemia trên locus của gen chuỗi β-globin.
Thalassemia thể trung gian cũng có thể là hậu quả của sự gia tăng sinh sản chuỗi α-globin, do sự nhân ba của gen tạo chuỗi β dị hợp tử hoặc do sự tương tác của β- và δβ- thalassemia (Taher, 2006).
Phân tích các kiểu gen của bệnh nhân thalassemia thể trung gian là rất quan yếu vì chẩn đoán sớm thể nhẹ có thể tránh truyền máu không cần thiết.
Dự đoán kiểu hình từ kiểu gen của bệnh nhân thalassemia thể trung gian vẫn còn khó khăn, do sự tương tác của các yếu tố di truyền và môi trường. Những yếu tố gây biến đổi di truyền cấp một là vô kể các gen a-len trên locus của chuỗi β- có thể gây giảm một phần hoặc hoàn toàn tổng hợp chuỗi β-. Những yếu tố gây biến đổi di truyền cấp hai là việc ảnh hưởng trực tiếp lên số lượng của các chuỗi α- dư (di truyền của gen chuỗi α- hay γ- thất thường). Những nhân tố gây biến đổi di truyền cấp ba thì rất đa dạng - xảy ra trên các locus liên hệ đến sự chuyển hóa xương, sắt và bilirubin - có thể ảnh hưởng đến bộc lộ lâm sàng. yếu tố môi trường có liên hệ bao gồm điều kiện từng lớp, dinh dưỡng và chăm nom y tế sẵn có (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006).
Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán phân biệt giữa thalassemia thể nặng và thể trung gian là cấp thiết để chọn phương pháp điều trị hiệp cho từng trường hợp. Dự đoán xác thực một kiểu hình nhẹ có thể tránh việc truyền máu không cần thiết và các biến chứng của nó. Trong khi đó, chẩn đoán thalassemia thể nặng đúng thời khắc cho phép bắt đầu truyền máu sớm, do đó có thể cản trở hoặc làm chậm diễn tiến cường lách và giảm nguy cơ tạo kháng thể kháng hồng huyết cầu. Nhưng không may, việc xác định chuẩn xác hai kiểu hình này tại thời điểm mới khởi phát bệnh còn rất khó khăn. Tuy nhiên, phân tách chi tiết về lâm sàng, huyết học, gen và dữ liệu phân tử có thể cho phép chọn lựa phương pháp điều trị hợp lý (Taher, 2006; Wainscoat, 1987; Weatherall, 2001). (xem Bảng 1 để thấy những điểm khác nhau chính giữa thalassemia thể trung gian và thể nặng).
Sinh lý bệnh của thalassemia thể trung gian
Ba nhân tố chính gây ra các triệu chứng lâm sàng của thalassemia thể trung gian: sự tạo hồng huyết cầu không hiệu quả, thiếu máu kinh niên và ứ sắt. mức độ nặng của triệu chứng phụ thuộc chính vào mức độ khuyết thiếu phân tử. Các chuỗi a- có tính rất không ổn định và lắng đọng trong các tế bào tiền thân hồng huyết cầu ở tủy xương gây tổn thương màng tế bào và chết tế bào (tức thị sự tạo hồng huyết cầu không hiệu quả).
Sự phì đại của phần tủy tạo hồng huyết cầu trong tủy xương và phần ngoài tủy dẫn đến biến dạng tiêu biểu của xương sọ và mặt, mỏng vỏ xương và gãy xương bệnh lý ở các xương dài. chừng độ tạo hồng huyết cầu không hiệu quả là nhân tố chính gây ra thiếu máu, trong khi đó, sự tán huyết của hồng cầu trưởng thành ở máu ngoại vi và giảm tổng hợp hemoglobin là chỉ là nhân tố phụ.
Các biến chứng và điều trị bệnh nhân thalassemia thể trung gian
Ngoài các triệu chứng đã được trình diễn.# của thalassemia thể trung gian, các triệu chứng có thể biểu thị nhẹ hơn hoặc nặng hơn ở thalassemia các thể khác. Kinh nghiệm cho thấy, bệnh nhân thalassemia thể trung gian có một số biến chứng đặc biệt hiếm gặp ở thalassemia thể nặng. Hình 1 trình bày các điểm nổi bật về biến chứng của bệnh thalassemia không được điều trị (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino và cs., 2001).
Hình 1: Chuỗi sinh bệnh học của bệnh thalassemia không được điều trị và các diễn đạt lâm sàng tương ứng
Lách to và phẫu thuật cắt lách
phẫu thuật cắt lách ngày nay không còn phổ quát và đẵn được thực hành ở thời đoạn sau của bệnh. Chỉ định cắt lách trong thalassemia thể trung gian khi lách quá to và giảm nồng độ Hb làng nhàng trong máu song song không kèm theo các yếu tố lâm thời khác như nhiễm khuẩn (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino và cs., 2001; Borgna -Pignatti, Rigon, Merlo và cs., 2003; Galanello, Piras, Barella và cs., 2001). Đối với các loại phẫu thuật, phương pháp nội soi là an toàn, khả thi và được ưu tiên hơn giải phẫu hở. Đây là phương pháp xâm lấn tối thiểu và được ưu tiên tuyển lựa trong điều trị bệnh nhân β-thalassemia có chỉ định cắt lách. Khi tiến hành cắt lách, giải phẫu viên cần rà túi mật để tìm sỏi và thực hiện cắt túi mật ngay khi tìm thấy sỏi túi mật (Leandros và cs., 2006).
Sỏi mật và giải phẫu cắt túi mật
Sỏi mật thường gặp trong thalassemia thể trung gian nhiều hơn so với thể nặng, là do sự tạo hồng cầu không hiệu quả và tán huyết ở máu ngoại biên. rưa rứa như cắt lách qua nội soi, nội soi cắt túi mật thuận lợi và khả thi hơn phẫu thuật hở (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino và cs., 2001; Borgna-Pignatti, Rigon, Merlo và cs., 2003; Galanello, Piras, Barella và cs., 2001; Leandros và cs., 2006).
Sự tạo máu ngoài tủy
Tạo máu ngoài tủy là cơ chế bù trừ do tủy xương hoạt động quá mức để đáp ứng tình trạng thiếu máu mạn trong thalassemia thể trung gian. Từ đó, hình thành các khối mô tạo hồng cầu mà cốt tử là ở lách, gan, các hạch bạch huyết, ngực và cột sống. Các khối này có thể được phát hiện bằng chụp cộng hưởng từ (MRI) và có thể gây ra các vấn đề về thần kinh như chèn lấn tủy sống, liệt hai chi dưới, khối u trong ngực.
Trong trường hợp bị chèn lấn cột sống, nhận biết các dấu hiệu lâm sàng là rất quan yếu để chẩn đoán sớm và phòng ngừa các biến chứng tâm thần không phục hồi. MRI là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được chọn lọc để chẩn đoán các khối u tạo máu ngoài tủy song song có thể thấy hình ảnh phì đại của phần tủy sống liên quan.
Việc điều trị bao gồm truyền máu, xạ trị và hydroxyurea (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Chehal, Aoun, Koussa và cs., 2003; Castelli, Graziadei, Karimi và Cappellini, 2004; Saxon, Rees, Olivieri, 1998). Tăng cường truyền máu là phương pháp điều trị đầy hứa hẹn, nhằm mục tiêu đưa Hb lên mức cao hơn, bao gồm việc truyền máu nhiều lần mỗi vài tuần để bù đắp cho nhu cầu tạo hồng cầu.
Sỏi thận
Bệnh nhân thalassemia thể trung gian thường dễ bị sỏi thận do hậu quả của việc tạo hồng huyết cầu không hiệu quả và tán huyết ngoại biên. Sỏi thận có thể dẫn đến thận ứ nước và suy thận. duyên do là do sỏi phì đại làm tắc nghẽn các ống thận và thậm chí cả đài thận. Thận thường phì đại trong bệnh nhân thalassemia do sự tạo máu ngoài tủy.
Loét chân
Loét chân thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi hơn là trẻ nhỏ trong thalassemia thể trung gian. Cơ chế không rõ nhưng một khi loét đã bắt đầu tiến triển thì rất đau đớn và khó chữa. Tuy nhiên truyền máu thường xuyên có thể làm thuyên giảm phần nào trong những trường hợp bệnh kéo dài. Việc bổ sung kẽm có thể giúp đẩy nhanh tiến trình chữa lành vết loét. Hydroxyurea cũng có nhiều lợi ích, có thể dùng một mình hoặc kết hợp với erythropoietin hoặc nguyên tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu. Ngoài ra, dùng buồng oxy để điều trị có thể làm cải thiện triệu chứng vì thiếu oxy mô có thể là nguyên cớ chính của các vết loét (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Gimmon, Wexler và Rachmilewitz, 1982).
Huyết khối
Bệnh nhân thalassemia thể trung gian có thiên hướng dễ bị huyết khối hơn thể nặng. Huyết khối chủ yếu hình thành ở hệ
Hình 2: Cơ chế huyết khối trong thalassemia thể trung gian
thống tĩnh mạch, bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu (40%), huyết khối tĩnh mạch cửa (19%), nhồi máu não (9%), nghẽn mạch phổi (12%) và các tĩnh mạch khác (20%). Hơn nữa, những bệnh nhân đã cắt lách có nguy cơ tắc mạch cao hơn so với những bệnh nhân không cắt lách (Cappellini, Robbiolo, Bottasso và cs., 2000). (Xem Hình 2 để biết thêm cơ chế tạo huyết khối trong thalassemia thể trung gian).
Điều trị bệnh nhân bị huyết khối gồm hai nhánh chính: ngừa và điều trị. phòng ngừa bằng cách dùng thuốc chống đông hợp trước phẫu thuật hoặc những thủ thuật có nguy cơ cao. Điều trị đòi hỏi phải dùng đầy đủ thuốc kháng đông theo khuyến cáo dành cho bệnh nhân dễ bị tăng đông. Nhận thức rõ vấn đề huyết khối là rất quan yếu vì sự nghẽn mạch do huyết khối đóng vai trò quan yếu trong tăng áp động mạch phổi và suy tim phải (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Taher, Ismaeel, Mehio, Bignamini và cs., 2006; Eldor, Rachmilewitz, 2002; Cappellini, Robbiolo, Bottasso và cs., 2000; Taher, Abou-Mourad, Abchee và cs., 2002).
Tăng áp động mạch phổi và suy tim ứ huyết
Tăng áp động mạch phổi rất thường gặp ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian. Một nghiên cứu trên 110 bệnh nhân thalassemia thể trung gian (60,9% không cần truyền máu hoặc truyền rất ít) thấy 59,1% số bệnh nhân có dấu hiệu tăng áp động mạch phổi và được cho là duyên do chính của suy tim sung huyết trên các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu (Aessopos, Farmakis, Karagiorga và cs., 2001). Cơ chế chính gây tăng áp động mạch phổi trong thalassemia thể trung gian vẫn còn chưa rõ ràng.
Vì thiếu máu và ứ sắt không thường gặp ở những bệnh nhân thalassemia thể nặng được truyền máu và thải sắt tốt, nên hai tình trạng trên có thể là cỗi nguồn sinh lý bệnh của tăng áp động mạch phổi. Vì vậy những bệnh nhân thalassemia thể trung gian khi có dấu hiệu sớm của tăng áp động mạch phổi cần được phân nhóm để được chỉ định truyền máu thường xuyên và thải sắt. Sildenafil cũng đã được dùng thành công để điều trị tăng áp động mạch phổi mặc dầu nghiên cứu được tiến hành trên lượng lớn bệnh nhân nhưng thiếu những bệnh nhân thalassemia thể trung gian (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Aessopos, Farmakis, Karagiorga và cs., 2001; Aessopos, Farmakis, Deftereos và cs., 2005 ).
Viêm gan
Viêm gan do virus (B và C) ít gặp ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian hơn thể nặng vì ít phải truyền máu bộc trực hơn. Men gan tăng bất thường (AST và ALT) thường thấy ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian, chủ yếu là vì tế bào gan bị tổn thương do lắng đọng chất sắt. Men gan thường trở về thông thường khi điều trị thải sắt đầy đủ (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino, Marelli và Fiorelli, 2001).
Chức năng nội tiết
Suy sinh dục, suy giáp và tiểu đường chừng như rất hiếm gặp trong thalassemia thể trung gian. mặc dầu bệnh nhân thalassemia thể trung gian thường dậy thì muộn, họ vẫn phát triển sinh dục bình thường và có khả năng thụ tinh. Một vài trường hợp có thể suy giáp khi về già (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino, Marelli và Fiorelli, 2001).
Vấn đề mang thai ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian
Bệnh nhân nữ thalassemia thể trung gian có thể mang thai tự nhiên thành công, mặc dầu biến chứng trong thai kỳ có thể xảy ra. Tình trạng thiếu máu mạn trong thalassemia thể trung gian có thể làm tăng tần suất xảy thai thiên nhiên, sinh non và thai chậm phát triển trong tử cung, trong khi đó, các biến chứng về nội tiết thường do lắng đọng hemosiderin. Thiếu hụt acid folic thường gặp trong thalassemia thể trung gian do sự thu nhận kém, chế độ ăn thiếu cung cấp hoặc đáng kể nhất là do tăng nhu cầu acid folic để đáp ứng với tình trạng tủy xương tăng hoạt động. Trong thời kì mang thai, nữ giới bị thalassemia thể trung gian phải được uống bổ sung acid folic (khoảng 1 mg/ngày), và nên được theo dõi cẩn thận để truyền máu khi cần thiết, tránh tình trạng rối loạn huyết động học do thiếu máu (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Nassar, Rechdan, Usta và Taher, 2006).
Ứ sắt
Cũng giống như thalassemia thể nặng, bệnh nhân thalassemia thể trung gian dễ bị biến chứng ứ sắt. Tuy nhiên, cơ chế ứ sắt trong thalassemia thể trung gian là do tăng kết nạp ở ruột chứ không phải do truyền máu. Hậu quả của việc ứ sắt có thể dẫn đến một số biến chứng nghiêm trọng bao gồm suy tim, bất thường nội tiết như tiểu đường và suy tuyến sinh dục (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Weatherall, 2001).
Khởi đầu của việc thải sắt phụ thuộc lượng sắt dư, tỉ lệ tích tụ sắt và thời kì phát hiện ứ sắt. Sự tăng nồng độ sắt trong gan (LIC) đã được ghi nhận cùng với sự tăng nhẹ ferritin trong huyết thanh (Fiorelli, Fargion, Piperno và cs., 1990). Do đó, để trực tiếp đánh giá LIC nên làm sinh thiết gan hoặc MRI. Liệu pháp thải sắt nên được bắt đầu nếu LIC ≥ 7 mg/g trọng lượng khô của gan (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006).
Loãng xương (có thể xem thêm ở chương loãng xương)
Trong thalassemia thể trung gian, có một tỉ lệ lớn bệnh nhân bị loãng xương cột sống và xương chậu ở cả hai giới. Độ nặng của loãng xương tăng theo tuổi và có thể có ở những người trẻ tuổi nhưng mật độ khoáng trong xương cột sống thấp hơn rất nhiều so với những người cùng tuổi. Điều trị bao gồm bổ sung bisphosphonates, calci và theo dõi độ đậm đặc của xương (Origa, Fiumana và cs., 2005).
Pseudoxanthoma elasticum (PXE)
PXE là một rối loạn mô kết liên di truyền hiếm gặp, đặc trưng bởi sự thoái hóa tất thảy các sợi đàn hồi với mô tả kiểu hình đa dạng. Đặc điểm lâm sàng thể hiện cốt yếu ở da, mắt và mạch máu. Giải phẫu bệnh ở da cho thấy da bị sưng phù, các sợi đàn hồi gãy làm nhiều mảnh và kết cụm bất thường ở lớp lưới trung và sâu của hạ bì, song song lắng đọng calci thứ phát. Hiện tượng này đã được diễn đạt trong bệnh thalassemia.
Điều trị bệnh nhân thalassemia thể trung gian
bây giờ có nhiều cách chọn lọc cho điều trị bệnh nhân thalassemia thể trung gian bao gồm cắt lách, truyền máu, điều hòa sản xuất Hb bào thai và ghép tủy xương (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Cappellini, Cerino, Marelli và Fiorelli, 2001).
Cắt lách
Cắt lách không còn là vấn đề cốt tử trong điều trị bệnh. Tuy nhiên, những chỉ định cắt lách chính bao gồm chậm phát triển hoặc sức khỏe kém, giảm bạch huyết cầu, giảm tiểu cầu, tăng nhu cầu truyền máu và lách to có triệu chứng.
Cắt lách trước 5 tuổi nguy cơ nhiễm trùng cao nên không được khuyến cáo.
Liệu pháp truyền máu và thải sắt
mặc dù truyền máu hiện không phải là liệu pháp điều trị liền tù tù cho các bệnh nhân thalassemia thể trung gian nhưng nó vẫn có những lợi. đáng kể. Quyết định bắt đầu điều trị nên dựa trên mức độ nghiêm trọng của triệu chứng thiếu máu, kể cả dấu hiệu chậm tăng trưởng và phát triển. Vì mức độ ứ sắt thay đổi trong thalassemia thể trung gian, nên việc đánh giá nồng độ sắt trong gan là việc nên làm trước khi bắt đầu liệu pháp truyền máu. Bệnh nhân thalassemia thể trung gian có thể sẽ tốt hơn nếu có một chế độ truyền riêng cho từng trường hợp bệnh nhân, khác với chế độ truyền thẳng tính trong thalassemia thể nặng, để ngăn ngừa việc lệ thuộc truyền máu. Phản ứng miễn nhiễm do kháng thể thất thường tương đối thường gặp trong thalassemia thể trung gian, dù rằng nguy cơ trên sẽ giảm nếu bắt đầu truyền máu trước 12 tháng tuổi (Pippard, Callender, Warner và Weatherall, 1979; Mourad, Hoffbrand, Sheikh-Taha và cs., 2003; Cappellini, 2001).
Truyền máu được chỉ định khi thấy những dấu hiệu sau:
Trẻ không phát triển với những thể hiện rõ của thiếu máu;
bộc lộ biến dạng xương;
Tăng thiếu máu không do các căn nguyên có thể tự hồi phục;
Có biểu thị lâm sàng tắc mạch;
Xuất hiện các vết loét ở chân;
Tăng áp động mạch phổi tiến triển;
Chậm hoặc dậy thì trễ;
Lách to tiến triển;
Điều hòa sự sản xuất hemoglobin bào thai
Tăng tổng hợp Hb bào thai có thể làm giảm thiếu máu và do đó cải thiện tình trạng lâm sàng của bệnh nhân thalassemia thể trung gian. Các chất như cytosine arabinoside và hydroxyurea có thể làm thay đổi kiểu tạo hồng huyết cầu và tăng sự hoạt động của gen tạo chuỗi γ-. Erythopoietin tỏ ra có hiệu quả và có thể có tác dụng cộng thêm khi kết hợp với hydroxyurea. Butyrates là thí nghiệm điều trị chuyên sâu hơn, nhưng chưa được cấp phép và khó dùng. Nhiều phản hồi tốt được mỏng, tuy nhiên, hồ hết bệnh nhân than phiền về khó khăn của việc uống thuốc và chích thuốc đường tĩnh mạch. Cần có những đánh giá lâm sàng chuyên sâu hơn nữa để làm rõ giá trị của hướng điều trị mới này (Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006; Karimi, H. Darzi, M. Yavarian, 2005; Dettelbach và Aviado, 1985; Dixit, Chatterjee, Mishra và cs., 2005; Perrine, Ginder, Faller và cs., 1993; Cappellini, Graziadei, Ciceri và cs., 2000; Olivieri, Rees, Ginder và cs., 1997). (Để biết thêm chi tiết, xem Chương 13: Hướng Tiếp Cận Thay Thế trong Điều Trị Bệnh Thalassemia.)
Ghép tủy xương
Ghép tủy xương là điều trị được thiết lập cho bệnh β-thalassemia. mặc dầu ghép tủy có thể điều trị hết bệnh nhưng chừng độ của sự thành công còn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và tuổi của bệnh nhân. Quyết định chọn bệnh nhân hội đủ điều kiện cho việc ghép cũng rất phức tạp và liên quan đến chất lượng cuộc sống, thời kì tiên lượng sống (thời kì sống đợi mong) của bệnh nhân được ghép tủy. Điều này đặc biệt liên can đến bệnh nhân thalassemia thể trung gian, nhất là ở những bệnh nhân chỉ bị ảnh hưởng nhẹ. Ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian ổn định không có triệu chứng và không cần truyền máu thì việc ghép tủy xương là không cấp thiết.
Khuyến cáo về điều trị bệnh nhân thalassemia thể trung gian
Hai vấn đề lớn về điều trị bệnh nhân thalassemia thể trung gian: 1) Hướng tiếp cận và điều trị các biến chứng ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian là người lớn và 2) Ngăn chặn các biến chứng ở trẻ em. Do đó, sự phân tầng về quản lý thalassemia thể trung gian giữa người lớn và con nít được thiết lập.
Kế hoạch điều trị cho các bệnh nhân thalassemia thể trung gian ở người lớn như sau:
Mỗi bệnh nhân được coi xét biệt lập và phân nhóm nguy cơ;
Hydroxyurea được dùng như là cách tiếp cận khởi đầu hiệp;
Liệu pháp truyền máu kèm thải sắt với deferoxamine truyền dưới da và kết hợp với steroid để chống phản ứng miễn dịch do kháng thể bất thường là rất cấp thiết;
Dùng aspirin để phòng đột quỵ, dùng kháng đông kéo dài và sau cắt lách ở bệnh nhân có tiền căn huyết khối;
Chụp MRI gan để đánh giá tình trạng ứ đọng sắt (hoặc sinh thiết gan nếu chẳng thể làm MRI) là rất quan yếu để quyết định thải sắt trong tương lai
Không có một chỉ dẫn rõ ràng cho việc quản lý thalassemia thể trung gian ở những người trẻ. thành thử, các tác giả khuyến cáo như sau:
Đánh giá có cần phải cắt lách không và trì hoãn việc bắt đầu truyền máu trừ khi thực sự cấp thiết, dựa vào những chỉ định được đề cập ở trên;
Quyết định bắt đầu truyền máu sớm và liệu pháp thải sắt nếu bệnh nhân có bằng cớ tăng trưởng bất thường, học kém hoặc ảnh hưởng tâm lý thứ phát do biến dạng khuôn mặt;
thực hiện thẳng tuột siêu thanh tim, theo dõi biến chứng tim mạch và bắt đầu điều trị ngay khi bệnh phát khởi để ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh;
Theo dõi nồng độ sắt trong gan bằng MRI thẳng thớm, hoặc sinh thiết gan;
Khuyến cáo bệnh nhân không hút thuốc, bất động phong độ kéo dài, không nên dùng thuốc tránh thai đường uống hoặc vòng tránh thai.
Xem Bảng 2 về chỉ định truyền máu và cắt lách.
β thalassemia/HbE
Hemoglobin E có đặc điểm lâm sàng của β-thalassemia mức độ nhẹ và thường gặp nhất ở Đông Nam Á, đặc biệt là phía đông Thái Lan và Lào. Sự kết hợp của HbE với β-thalassemia làm cho lâm sàng trở thành đa dạng, có thể đổi thay từ giống như thalassemia thể nặng đến dạng nhẹ của thalassemia thể trung gian (TIF, 2002; Premawardhena và cs., 2005).
Về mặt lâm sàng, β-thalassemia/HbE có thể được phân thành ba chừng độ, mỗi chừng độ có đề nghị quản lý về mặt lâm sàng riêng.
Chỉ định truyền máu |
Chỉ định cắt lách |
Chậm phát triển thể chất hoặc học kém |
Chậm phát triển ý thức hoặc sức khỏe kém |
Tình trạng stress thoáng qua (ví dụ: mang thai, nhiễm trùng) |
Giảm bạch cầu |
Thiếu máu có triệu chứng |
Giảm tiểu cầu |
Suy tim sung huyết, tăng áp động mạch phổi |
Tăng nhu cầu truyền máu |
Loét chân |
Lách to có triệu chứng |
(Taher, Ismaeel và Cappellini, 2006) |
Bảng 2: Chỉ định truyền máu và cắt lách ở bệnh nhân thalassemia thể trung gian
β -thalassemia/ HbE thể nhẹ
β-thalassemia/HbE thể nhẹ không cần điều trị và hiếm khi biểu đạt các triệu chứng lâm sàng. Hemoglobin có thể cao tới 9-12 g /dl. Nên cẩn thận để không lầm lẫn nhóm bệnh này với thiếu máu thiếu sắt hoặc người lành mang gen β-thalassemia. Có thể phân biệt bằng cách xem hình dáng hồng huyết cầu, tình trạng sắt và điện di hemoglobin (TIF, 2002; và cs. Premawardhena, 2005).
β-thalassemia/HbE thể làng nhàng nặng
Nhóm này bao gồm phần nhiều các bệnh nhân β-thalassemia/HbE. Hầu hết các bệnh nhân này có nồng độ hemoglobin ổn định ở mức 6-7 g/dl. Nhóm này có tả triệu chứng lâm sàng hao hao thalassemia thể trung gian và thường không cần phải truyền máu trừ khi bệnh nhân bị nhiễm trùng làm xúc tiến thiếu máu. Các biến chứng khác như ứ sắt có thể xảy ra. Trong trường hợp đó nên bắt đầu thải sắt. Bệnh nhân trong nhóm này thường có tuổi thọ ngắn hơn, nhưng nếu được theo dõi và điều trị cẩn thận thì có thể có tiên lượng tốt hơn (TIF, 2002; Premawardhena và cs., 2005).
β thalassemia/HbE thể nặng
Bệnh nhân biểu đạt các triệu chứng lâm sàng của thalassemia thể nặng bao gồm chậm phát triển thể chất, biến dạng xương với những thay đổi trên xương mặt, thiếu máu, vàng da và gan lách to. Hb ở mức thấp khoảng 4-5 g/dl. Quản lý lâm sàng nhóm bệnh nhân này cũng giống như thalassemia thể nặng (TIF, 2002; Premawardhena và cs., 2005).
Biến chứng và việc quản lý β-thalassemia/HbE
Các biến chứng của bệnh nhân β-thalassemia/HbE phụ thuộc vào chừng độ phân loại như đã nói ở trên. Xấu nhất là biến chứng xảy ra trong nhóm nặng với đặc điểm lâm sàng hao hao như β-thalassemia thể nặng. Biến chứng xảy ra bao gồm những vấn đề can dự đến ứ sắt do việc lệ thuộc truyền máu (xem phần biến chứng trong β-thalassemia thể nặng để được giải thích thêm).
