Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Cryptosporidium sp.

Cryptosporidium sp.

Cryptosporidies do Tyzzer (1907) và Leger (1911) trình diễn.#. Lévine phân loại lại vào năm 1980. Cryptosporidies thuộc lớp bào tử trùng, lớp phụ Coccidia, chỉ có một chi Cryptosporidium , nhưng có tới 11 loài.

Cryptosporidies phân bố rộng khắp trên thế giới. Ở Việt Nam, điều tra trên những bệnh nhi ỉa chảy ở cả miền Bắc và miền Nam thấy tỉ lệ nhiễm đơn bào Cryptosporidium sp. khá cao. Cryptosporidium sp. Có thể tiến công cơ địa suy giảm miễn nhiễm cũng như người khoẻ mạnh nhất là trẻ con và gặp trên các bệnh nhân AIDS được xem như là bệnh kí sinh trùng cơ hội.

Theo đánh giá của trọng tâm kiểm soát bệnh Hoa Kì, có tới 2 - 5% bệnh nhân AIDS bị ỉa chảy do Cryptosporidium sp., tuy nhiên theo Markell E.K

(1999) cho rằng: tỉ lệ này còn cao hơn nhiều từ 11 - 41% tùy theo vùng. Mac Kenzie (1994) chứng minh được rằng: trên người khoẻ mạnh Cryptosporidium sp. đã gây ra các trận dịch ỉa chảy lan truyền qua đường nước hoặc các sản phẩm chế biến từ sữa bò (đại dịch ở Milwaukee - Hoa Kì, năm 1993 có 403.000 người mắc). Tại Nhật Bản Kuroki T. (1966) cũng đã chứng minh được vụ dịch tiêu chảy do Cryptosporidium sp. Ở Saitama có tới 9.104 người mắc. Tuy nhiên, theo đánh giá của Current W.L. (1991) các nước đang phát triển sẽ có tần suất mắc bệnh này cao hơn 8,5% so với các nước phát triển 2,2%.

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bảo (1991) cho thấy: tỉ lệ nhiễm đơn bào này là 2,9% trong số 380 trẻ em bị mắc bệnh ỉa chảy cấp dưới 5 tuổi nhập viện Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh. Theo Trần Vinh Hiển (1997): tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới, tỉ lệ xét nghiệm các mẫu phân dương tính với Cryptosporidium sp là 0,26%. Ngoài ra, theo Nguyễn Chí Cường (1998): một điều tra trên con nít, người khoẻ mạnh và trên bệnh nhân HIV/AIDS có tiêu chảy hoặc không đều không tìm thấy Cryptosporidium sp. Gần đây theo điều tra của Phạm Thái Bình và CS (2003) tại huyện Củ Chi - TP. Hồ Chí Minh cho thấy: tỉ lệ nhiễm Cryptosporidium sp. Ở các viên chức coi sóc bò 3,5%, con nít đi tả dưới

5 tuổi 3,8%. dù rằng vậy, cho tới nay chúng ta cũng chưa có một cuộc điều tra đầy đủ để xác định tỉ lệ và phân bố loại kí sinh trùng này.

Đặc điểm hình thể.

Cryptosporidium có kích tấc nhỏ 2 - 6 µm, kích thước đổi thay tùy thuộc vào các tuổi phát triển của vòng đời. Thể nang trứng ( oocyste ) hay gặp trong phân, có kích tấc từ 5 - 6 x 3 µm đến 13 - 15 x 8 - 9 µm, đã có bào tử ngay sau khi mới thải ra. Bào tử chứa 4 thoi trùng trần trụi trong những nang bào tử ( sporocystes ).

Đặc điểm sinh học.

Quan sát vòng đời sinh vật học của Cryptosporidium sp. giống như Eimeriidae Isosporidae gồm 6 thời đoạn phát triển chính: có hai hình thức sinh sản vô tính và hữu tính ( hình 7.3 ).

Hình 7.3: Vòng đời của Cryptosporidium sp.

Giai đoạn thoát kén (excystation):

Khi nhiễm các nang bào tử qua đường tiêu hoá vào ruột, thoát kén, phóng thích ra các thoi trùng, tiếp chuyện phát triển.

tuổi phát triển trứng (merogony):

Đây là thời đoạn sinh sản vô giới, thực hiện ở tế bào biểu mô ruột.

thời đoạn phát triển giao tử( gametogony ):

Ở Giai đoạn này bắt đầu hình thành các giao tử đực và giao tử cái.

tuổi thụ tinh( fertilization ):

Đây là thời đoạn sinh sản hữu giới, có sự phối hợp giữa giao tử đực với giao tử cái để hình thành nang trứng.

tuổi phát triển nang trứng( oocyst ):

Sau khi các nang trứng hình thành, sẽ tiếp tục phát triển thành nang bào tử.

tuổi phát triển bào tử (sporogony):

Giai đoạn này bắt đầu hình thành các thoi trùng có khả năng gây nhiễm từ trong các nang bào tử, ở trong nang trứng.

Vai trò y khoa.

Trong thời gian dài vai trò y học của Cryptosporidium sp. không được đánh giá đúng mức. Cryptosporidium sp. kí sinh ở biểu mô ruột đoạn hồi tràng, ở vị trí nông trên bề mặt.

Cryptosporidium sp. chỉ gây bệnh khi có kết hợp nhiễm virut: Rotavirus, Corravirus... lúc đó Cryptosporidium sp. trở nên độc tính và gây ra những rối loạn trầm trọng, nhất là đối với những người suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng... là những nhân tố thuận lợi tạo nên bệnh Cryptosporidiose.

Bệnh hay gặp ở những người có hệ thống lympho T bị suy giảm do nguyên cớ virut, những người bị bệnh AIDS, những người đồng tính luyến ái, con nít suy dinh dưỡng...

Bệnh cũng có thể xảy ra khi có sự phối hợp với virut, ở những người ăn phải rau quả, có nhiễm nang kén bào tử từ phân súc vật có kén. nguyên tố này giải thích vì sao người không xúc tiếp với động vật bao giờ vẫn có khi bị bệnh.

Ngoài thể bệnh thường nhật điển hình ở ruột, đã có những thông báo một vài trường hợp mô tả bệnh ở đường hô hấp. Cryptosporidium sp. gây bệnh tiêu biểu ở ruột có những triệu chứng sau:

Ở người thường ngày chỉ có tả triệu chứng lâm sàng nhẹ, sau thời gian ủ bệnh 4 - 12 ngày có triệu chứng đi lỏng mức độ vừa, sốt nhẹ hoặc không sốt, ít có biểu hiện đau bụng hoặc không và bệnh tự khỏi trong vòng 1 - 2 tuần.

Ở những người có suy giảm miễn nhiễm bẩm sinh, người mắc bệnh AIDS, trẻ nít suy dinh dưỡng... triệu chứng đi lỏng rầm rộ kiểu tiêu chảy từ 6 - 25 lần trong ngày, kéo dài nhiều tháng, thường kèm theo đau bụng, sốt, mất nước, kém tiếp thu, gầy còm. Có trường hợp thấy viêm túi mật, viêm phổi...

Chẩn đoán.

Dựa vào các trình diễn.# lâm sàng không có giá trị.

đốn dựa vào xét nghiệm phân tìm kí sinh trùng trong phân bằng các phương pháp nhuộm Auramin (huỳnh quang), hoặc nhuộm Ziell Nellsen cải tiến. Các phương pháp soi tươi, nhuộm iod... thường khó phát hiện. Cũng có thể xét nghiệm bệnh phẩm khác như dịch tá tràng, dịch mật, dịch hút phế quản để chẩn đoán bệnh Cryptosporidioses.

Điều trị.

giờ chưa có thuốc điều trị đặc hiệu.

Một số tác giả dùng spiramycin thấy cũng có tác dụng. cốt vẫn là điều trị triệu trứng.

Dịch tễ học.

Bệnh do Cryptosporidium sp. gây ra phân bố ở nhiều nước, là một bệnh từ động vật lây sang người. Bệnh có tính chất lưu hành mạnh.

Như đã nêu trên, Cryptosporidium sp. gây bệnh đẵn cho động vật có xương sống như bò, ngựa, cừu, khỉ, mèo, chó… Đặc biệt bò là nguồn truyền nhiễm quan yếu liên tưởng đến sự truyền bệnh cho người.

Ngoài ra người có thể nhiễm do ăn phải rau, quả có nang kén hoặc có thể nhiễm trực tiếp khi xúc tiếp với động vật là nguồn bệnh. Các động vật có vú và một số loài chim (thường là còn non, mới sinh: bê, cừu non, lợn con, từ 1 - 3 tuần tuổi, nhất là những con vật non không được bú sữa non của mẹ) là nguồn bệnh hiểm nguy truyền Cryptosporidium sp.

dù rằng tỉ lệ nhiễm Cryptosporidium sp. ở Việt Nam còn thấp, nhưng hiện giờ chúng ta đang phải chiến đấu với những điều kiện thuận lợi cho sự lan truyền của mầm bệnh này như ngành chăn nuôi bò sữa đang ngày càng phát triển (đẵn lấy giống bò du nhập) và tỉ lệ bệnh nhân AIDS đang gia tăng (170.000 người nhiễm HIV năm 2003). Đó chính là cơ hội cho các bệnh nhiễm trùng thời cơ xuất hiện, trong đó có mầm bệnh Cryptosporidium sp.

Artikel Terkait

Back To Top