Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Di truyền vi khuẩn

Di truyền vi khuẩn

Di truyền là sự duy trì các đặc điểm qua nhiều đời. Cơ sở vật chất của di truyền là thể nhiễm sắc. thể nhiễm sắc của vi khuẩn tỉ dụ như của E.coli gồm 5x10 6 đôi nucleotide chia thành nhiều đoạn gọi là gen, mỗi gen quyết định sự tổng hợp một protein đặc hiệu. Những protein đặc hiệu như enzyme và những cấu tạo khác của tế bào xác định tất tật các tính trạng của một cá thể.

nhiễm sắc thể chịu sự nhân đôi trước khi phân bào. Do đó mỗi tế bào con nhận một bộ gen tương đương với tế bào mẹ. Sự nhân đôi của nhiễm sắc thể là một quá trình chính xác, tuy nhiên mỗi gen có một xác xuất nhỏ về sơ sót trong sao chép, do đó làm nảy đột biến. Đột biến xảy ra tình cờ không cần sự can thiệp của môi trường bên ngoài với một tần suất rất nhỏ từ 10 -5 đến 10 -9 .

Sự chuyên chở di truyền ở vi sinh vật

Sự tiến hóa của vi sinh vật phụ thuộc vào sự biến dị và sự tuyển lựa. Nó diễn ra chậm chạp, lúc sự biến dị xảy ra do tích lũy những biến dị liên tiếp ở một chủng sinh vật. Quá trình này trở nên nhanh chóng ở vi sinh vật nhờ các vi sinh vật phát triển những cơ chế chuyển vận di truyền giữa các cá thể.

Vi khuẩn chuyển vận những nhân tố di truyền qua ba cơ chế: biến nạp, tải nạp và tiếp hợp.

Trong biến nạp, một đoạn ADN được vận tải vào tế bào nhận. Đây là một cơ chế thô sơ của sự vận tải gen.

Trong tải nạp và tiếp hợp, những plasmid được chuyển vận qua trung gian của phage hoặc qua xúc tiếp.

Plasmid là những phân tử ADN dạng vòng tròn nằm ngoài thể nhiễm sắc và có khả năng tự sao chép. Plasmid có trọng khối nhỏ so với nhiễm sắc thể. Hai plasmid gọi là không hiệp nếu chúng không thể tồn tại bền vững trong cùng một tế bào. Những plasmid F mang nguyên tố sinh sản F. Những plasmid cùng tồn tại trong một vi khuẩn với nguyên tố F gọi là Fi + nếu chúng ngăn cản sự tiếp hợp của F, gọi là Fi - trong trường hợp ngược lại.

Biến nạp (Transformation)

Biến nạp là sự chuyển vận ADN hòa tan của thể nhiễm sắc từ vi khuẩn cho sang vi khuẩn nhận. Khi tế bào vi khuẩn bị vỡ do làm tan (lysis), ADN dạng vòng tròn của chúng thoát ra môi trường thành các đoạn thẳng với chiều dài khác nhau, có khả năng gây biến nạp cho các tế bào nhận khác.

Griffith năm 1928 đã khám phá sự biến nạp ở phế cầu bằng thử nghiệm sau ở chuột nhắt :

Tiêm vào chuột phế cầu sống S1 có vỏ thì chuột chết vì nhiễm khuẩn huyết.

Tiêm vào chuột phế cầu R1 sống không vỏ thì chuột không chết.

Tiêm vào chuột phế cầu S1 chết thì chuột không chết.

Tiêm vào chuột hổ lốn phế cầu S1 chết với R1 sống thì chuột chết vì nhiễm khuẩn huyết. Từ máu chuột phân lập được S1 sống có vỏ.

Griffith cũng như các nhà khoa học thời bấy giờ chưa hiểu ý nghĩa sâu xa của sự kiện.

Alloway năm 1933 thực hiện thử nghiệm ở ống thử và phân lập được phế cầu S1 ở hỗn tạp phế cầu S1 chết và phế cầu R1 sống.

Avery, Mac-Leod, Mac-Carthy năm 1944 đã phân lập được yếu tố biến nạp và xác định là ADN. Nhưng lúc bấy giờ giới khoa học chưa ưng ADN là chất liệu di truyền. Đến năm 1952 lúc Hershey và Chase chứng minh ADN của Phage đi vào bên trong vi khuẩn trong khi vỏ Protein bị giữ ở bên ngoài thì ADN mới được công nhận là nguyên tố biến nạp.

Sự biến nạp được khám phá thêm ở nhiều vi khuẩn khác: Hemophilus , Neisseria, Streptococcus, Bacillus, Acinetobacter ...

Trong biến nạp, tế bào nhận phải ở dạng sinh lý đặc biệt được gọi là khả nạp (competence) mới có khả năng hấp thụ ADN hòa tan của tế bào cho. dạng khả nạp xuất hiện trong một giai đoạn nhất quyết của quá trình phát triển của tế bào vào lúc tê bào đang tổng hợp vách.

Sau khi xâm nhập, phân tử ADN sợi kép bị một endonuclease cắt ở màng tế bào thành đoạn ngắn sợi đơn và đi vào nguyên tương . Đoạn ADN sợi đơn kết đôi với ADN của tế bào nhận ở đoạn tương đồng rồi tái tổ hợp; bằng cách đó ADN biến nạp kết hợp vào thể nhiễm sắc của tế bào nhận. thể nhiễm sắc tái tổ hợp là phân tử ADN sợi kép của tế bào nhận trong đó một đoạn ngắn của một sợi được thay thế bằng một đoạn ADN của tế bào cho.

Đối với vi khuẩn đường ruột, sự tiếp nhận đòi hỏi sự biến đổi bề mặt của tế bào bằng cách xử lý với CaCl 2 .

Ý nghĩa của sự biến nạp:

Sự biến nạp cho phép phối hợp vào thể nhiễm sắc vi khuẩn ADN tổng hợp hoặc ADN biến đổi invitro.

Biến nạp cũng được dùng để xác định những vùng rất nhỏ trên bản đồ di truyền của vi khuẩn.

Biến nạp có thể xảy ra ở trong tự nhiên. Người ta đã lựa chọn vi khuẩn tái tổ hợp độc lực tăng lúc tiêm 2 chủng phế cầu vào phúc mạc chuột nhắt. Như thế sự biến nạp có một ý nghĩa dịch tễ học, tuy nhiên sự chuyên chở di truyền bằng biến nạp không hữu hiệu bằng sự vận chuyển di truyền bằng plasmid.

Tải nạp (Transduction)

Tải nạp là sự chuyên chở ADN từ vi khuẩn cho đến vi khuẩn nhận nhờ phage. Trong tải nạp chung, phage có thể mang bất kỳ gen nào của vi khuẩn cho sang vi khuẩn nhận. Trong tải nạp đặc hiệu, một phage nhất mực chỉ mang được một số gen cố định của vi khuẩn cho sang vi khuẩn nhận.

Sự tải nạp chung

Kiểu tải nạp này được Zinder và Lederberg khám phá năm 1951 lúc khảo sát sự tiếp hợp ở Salmonella . Lúc lai giống chủng L 22 và chủng L 2 , mỗi chủng mang một cặp tính trạng đột biến khác nhau thì thu được với một tỷ lệ nhỏ một số tế bào tái tổ hợp mang một cặp tính trạng đột biến như tế bào hoang dại gốc, phage P 22 được tìm thấy trong nước lọc canh khuẩn của 2 chủng vi khuẩn trên. Phage P 22 độc lực với chủng L 2 nhưng ôn hòa với chủng L 22 . Lúc cho P 22 vào canh khuẩn L 2 thì quơ tế bào của L 2 bị dung giải và giải phóng phage P 22 trong đó có một ít phage chứa một mảnh ADN của L 2 . Lúc cho chủng L 22 vào dung dịch phage P 22 nói trên thì một số phage chuyên chở những gen của L 2 vào L 22 và vi khuẩn tự dưỡng như type hoang dại được phát sinh qua tái tổ hợp.

Sự tải nạp đặc hiệu

Năm 1954 Mores nhận thấy phage ôn hòa có thể thực hiện một kiểu tải nạp khác gọi là tải nạp đặc hiệu. Nó chỉ vận tải một nhóm giới hạn gen, nhóm gen được chuyển nằm sát chổ prophage gắn vào ở nhiễm sắc thể. Sự tải nạp đặc hiệu vận chuyển những gen đặc hiệu ở nhiễm sắc thể và đòi hỏi sự tích hợp của phage. Hơn nữa khác với tải nạp chung, phage tải nạp đặc hiệu chỉ được phóng thích lúc chiếu tia cực tím chứ không bao giờ tự tách rời khỏi nhiễm sắc thể.

Lúc chiếu tia cực tím vào một canh khuẩn E.coli K 12 Gal+ sinh tan với phage l thì trong những phage được giải phóng có khoảng 10 -6 l d Gal. l dGal là phage l mang gen Gal nhưng thiếu một dọan ADN mà nó để lại trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Đó là phage không hoàn chỉnh không thể nhân lên nếu không bổ sung đoạn ADN bị thiếu nhưng có thể tải gen Gal. Lúc cho dịch dung giải nói trên vào canh khuẩn E.coli K 12 Gal- thì thu được khỏang 10 -6 vi khuẩn tải nạp galactose dương tính. Đó là hiện tượng tải nạp tần số thấp LFT (Low Frequency Transduction). Một số ít tế bào trong canh khuẩn E.coli K 12 Gal- nhiễm dịch LFT trở thành hai lần sinh tan với phage l thông thường và phage l dGal. Những tế bào này hình thành clon tế bào hai lần sinh tan. Lúc chiếu tia cực tím vào những tế bào nói trên thì thu được một dịch phage trong đó những phage l và phage l dGal bằng nhau. Đó là sự tải nạp tần số cao (High Frequency Transduction).

Ý nghĩa của sự tải nạp:

Sự tải nạp có thể cho phép xác định những gen rất gần nhau ở nhiễm sắc thể, do đó được sử dụng để thiết lập bản đồ di truyền. Dựa vào tần số tải nạp hai gen cùng một lúc người ta có thân xác định khoảng cách giữa các gen và nhờ thế xác định vị trí của chúng.

Trong tự nhiên sự tải nạp giữ một vai trò có ý nghĩa trong lây lan các plasmid kháng thuốc ở vi khuẩn gram dương như plasmid penicillinase ở tụ cầu. ngoại giả prophage có thể đem lại cho vi khuẩn một số thuộc tính đặc biệt quan yếu ví dụ prophage b ở trực khuẩn bạch hầu.

Tiếp hợp (Conjugation)

Tiếp hợp là hiện tượng chuyển vận những nguyên tố di truyền từ vi khuẩn cho (đực) sang vi khuẩn nhận (cái) khi hai vi khuẩn xúc tiếp với nhau.

Lederberg và Tatum lần đầu tiên năm 1946 phát hiện ra sự tiếp hợp ở vi khuẩn. hẩu lốn hai biến chủng E.coli K 12 với nhau. Chủng 1 khuyết dưỡng với Biotin và Methionin nhưng có khả năng tổng hợp Threonin và Leucin ký hiệu B - M - T + L + . Chủng 2 khuyết dưỡng với Threonin và Leucin nhưng tổng hợp được Biotin và Methionin, ký hiệu B + M + T - L - .

Cả hai biến chủng này không mọc được trong môi trường tổng hợp tối thiểu không chứa bốn chất trên nên không tạo thành khuẩn lạc.

Nếu trộn hai biến chủng trên với nhau rồi cấy vào môi trường tối thiểu thì thấy mọc các khuẩn lạc với tần số 10 -6 . Điều này cho thấy hai chủng lọai vi khuấn qua thảo luận gen đã tạo thành các tế bào tái tổ hợp có khả năng tổng hợp bốn chất: Biotin, Methionin, Threonin, Leucin, ký hiệu B + , M + , T + , L + .

Hiện tượng tiếp hợp can dự đến nguyên tố sản xuất F. yếu tố F là một plasmid. Tế bào chứa F là tế bào đực hay tế bào F + đóng vai trò tế bào cho. Tế bào không chứa F hoặc tế bào cái F - dóng vai trò tế bào nhận. Trong thí điểm tiếp hợp trên, chủng (1) đóng vai trò chủng cho và chủng (2) đóng vai trò chủng nhận.

Từ các tế bào F + , Cavalli đã phân lập được các tế bào Hfr (High frequency of recombination) có khả năng tải gen với một tần số cao. Khi lai Hfr x F - thì thu được các tế bào tái tổ hợp 1000 lần nhiều hơn khi lai F + x F - .

Trong các tế bào F + yếu tố F tạo nên một lực đặc biệt gọi là lực tiếp hợp. Chính nhờ lực này mà xảy ra sự tiếp hợp giữa các vi khuẩn.

Trong các tế bào Hfr nhân tố F tích hợp vào thể nhiễm sắc của vi khuẩn và chỉ có khả năng sao chép cùng với thể nhiễm sắc. Ở tế bào Hfr yếu tố F cũng tạo nên một lực tiếp hợp, nhưng trong quá trình tiếp hợp vì nằm cuối bộ gen, nó đẩy bộ gen vào tế bào nhận qua cầu nguyên tương nối liền hai tế bào tiếp hợp.

Ở tế bào Hfr trong một số trường hợp F có thể tách rời khỏi thể nhiễm sắc và mang theo một đoạn ADN của nhiễm sắc thể và được gọi là F’. F’ có khả năng tự sao chép và có thể chuyển vận vào tế bào nhận. F’ có thể vận tải một số tính trạng của một vi khuẩn này sang một vi khuẩn khác. F’ được sử dụng để phân lập và chuyển vận một số gen chọn lựa.

Tiếp hợp thường xảy ra giữa những vi khuẩn cùng loài nhưng cũng có thể xảy ra giữa những vi khuẩn khác loài như E.coli với Salmonella hoặc Shigella nhưng tần số tái tổ hợp thấp.

Ý nghĩa của sự tiếp hợp:

Sự tiếp hợp là một công cụ khảo sát quan yếu trong nhiều lĩnh vực sinh lý và di truyền vi khuẩn vì nó cho phép tạo nên những vi khuẩn phối hợp nhiều đột biến khác nhau.

Nhờ kỹ thuật tiếp hợp gián đoạn người ta thiết lập bản đồ thể nhiễm sắc của vi khuẩn. Ngoài ra chủng F’ được dùng để nghiên cứu hoạt động của một số gen.

Trong tự nhiên sự tiếp hợp giữ một vai trò đáng kể trong biến dị của vi khuẩn đặc biệt trong lây lan tính kháng thuốc giữa các vi khuẩn Gram âm.

DI TRUYỀN VỀ TÍNH KHÁNG THUỐC

Các vi khuẩn kháng thuốc được tìm thấy khắp nơi kể cả những nơi chưa bao giờ dùng kháng sinh. Ngay khi phát minh penicilin năm 1940, vi khuẩn kháng penicilin đã được bẩm. Ngày nay vấn đề kháng thuốc trở nên mối bận tâm hàng đầu trong điều trị các bệnh nhiễm trùng và kháng sinh đồ là một thí điểm hàng ngày ở các phòng xét nghiệm vi trùng.

Sự hình thành tính kháng thuốc ở vi sinh vật là do sự biến đổi gen ở nhiễm sắc thể hoặc do hấp thu plasmid kháng thuốc.

Vi khuẩn trở thành kháng thuốc qua 4 cơ chế: đột biến, tái tổ hợp hoặc thu hoạch plasmid kháng thuốc hoặc thu hoạch transposon .

Đột biến thành kháng thuốc

Nhiều thử nghiệm đã chứng minh tính kháng thuốc nảy sinh do đột biến, như thế tính kháng thuốc can hệ đến sự biến đổi gen ở thể nhiễm sắc và có thể di truyền cho các thế hệ sau. Sự đột biến xảy ra với tần suất 10 -5 - 10 -9 .

Trong tính kháng thuốc, kháng sinh giữ vai trò chọn lựa chứ không phải vai trò chỉ đạo. Việc sử dụng rộng rãi kháng sinh làm phát triển chóng vánh các vi khuẩn kháng thuốc bằng cách giết chết các vi khuẩn mẫn cảm, tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc phát sinh do đột biến chiếm ưu thế.

Sự tái tổ hợp

Lúc một đột biến kháng thuốc xuất hiện ở một quần thể vi khuẩn thì vi khuẩn kháng thuốc có thể tải gen kháng thuốc đến các vi khuẩn nhạy cảm theo một trong 3 cơ chế tải di truyền: biến nạp, tải nạp và tiếp hợp tùy theo loài vi khuẩn. Sự tái tổ hợp giữa 2 vi khuẩn, mỗi vi khuẩn kháng một kháng sinh làm xuất hiện những vi khuẩn kháng với cả 2 loại kháng sinh. Trong tự nhiên, sự vận chuyển gen kháng thuốc trong tải nạp và tiếp hợp xảy ra với một tần suất thấp khoảng 10 -5 . Trong biến nạp tần suất chưa được biết, nhưng có thể còn thấp hơn nữa.

Thu hoạch plasmid kháng thuốc

Hai cơ chế kháng thuốc trên liên tưởng đến gen kháng thuốc nằm ở trên nhiễm sắc thể. Ở đây tính kháng thuốc can dự đến plasmid nằm ngoài nhiễm sắc thể. Plasmid kháng thuốc được chuyên chở theo những cơ chế khác nhau tùy theo vi khuẩn Gram dương hoặc vi khuẩn Gram âm.

Plasmid kháng thuốc ở vi khuẩn Gram âm

Năm 1946 lần đầu tiên ở Nhật Bản người ta phân lập nhiều chủng Shigella kháng với nhiều kháng sinh : streptomycin, chloramphenicol, tetracyclin, sulfonamit. nhân tố chịu trách nhiệm về tính kháng nhiều thuốc là một plasmid kháng thuốc goi là nhân tố R. nhân tố R điển hình là một plasmid lớn với 2 phần, chức năng riêng biệt. Phần thứ nhất RTF gọi là yếu tố tải đề kháng (Resistance transfer factor), khoảng 80 kb chứa những gen của sự tự sao chép và của sự tiếp hợp. Phần kia nhỏ hơn là quyết tiên đề kháng (R determinant), kích tấc rất thay đổi và chứa gen kháng thuốc (R genes) RTF và quyết tiên đề kháng thường ngày tạo nên một đơn vị. nhân tố R thường tái tổ hợp với nhau làm nảy những tổ hợp mới về kháng thuốc.

nhân tố R không những có thể lây truyền rộng rãi trong nhiều loài vi khuẩn đường ruột mà còn có thể lây nhiễm cho nhiều vi khuẩn khác như vi khuẩn tả, vi khuẩn dịch hạch...

nguyên tố R lây nhiễm trong vi khuẩn qua xúc tiếp nên tính kháng thuốc lan tràn trong một quần thể vi khuẩn nhạy cảm như một bệnh lây nhiễm .

Plasmid kháng thuốc ở vi khuẩn Gram dương

Sự đề kháng của nhiều chủng tụ cầu vàng với penicillin, erythromycin và nhiều kháng sinh cũng do plasmid gây nên. Plasmid ở vi khuẩn Gram dương chẳng thể chuyên chở bằng tiếp hợp mà bằng tải nạp qua trung gian của phage. bây chừ đa số những chủng tụ cầu kháng penicillin ở bệnh viện đều mang plasmid penicillinase.

Thu hoạch transposon

Transposon còn gọi là gen nhảy là những đoạn ADN, kích tấc nhỏ chứa một hay nhiều gen có 2 đầu tận cùng là những chuổi nucleotic giống nhau nhưng ngược chiều nhau (inverted repeat). có thể nhảy từ plasmid vào nhiễm sắc thể hoặc từ nhiễm sắc thể vào plasmid hoặc từ plasmid đến plasmid. tất mọi gen trong đó có gen kháng thuốc có thể nằm trên transposon. Những transposon chỉ đạo sự kháng kim khí nặng, sự tạo thành độc tố và khả năng dùng một số chất chuyển hóa (lactose, raffinose, histidin, hợp chất diêm sinh) đã được biểu lộ. Đặc biệt quan trọng trong vi sinh vật học là những transposon kháng kháng sinh như Tn3 mang gen kháng ampicillin, Tn5 mang gen kháng kanamycin, Tn10 mang gen kháng tetracyclin, Tn4 mang gen kháng ba kháng sinh ampicillin, streptomycin và sulfamit.

Back To Top