Khí công liệu pháp (phương pháp tự chữa bệnh)
Vài nét về lịch sử.
Khí công là một di sản quí của Đông y nói chung và y khoa Việt Nam nói riêng.
Trong Nội kinh (bộ sách cổ nhất của đông y) đã ghi “Trái nắng trở trời có thể làm ta mắc bệnh, cần phải xoành xoạch để ý và thích nghi với nó”
Muốn giữ được sức khoẻ con người phải trong lòng thoải mái (không có dục vọng), yên tĩnh (không thấy sợ), chức năng điều hoà (tinh thần thanh tịnh) (không tham lam của cải của người khác).
Những người như vậy để thích nghi với hoàn cảnh họ không so bì tỵ nạnh, ham danh vọng phú quí, dễ hoà với phong tục tập quán ở nơi họ đến. Họ trở nên những người chân chính. Do tinh thần được tĩnh do vậy tuốt những dục vọng không làm tối được mắt họ, dâm dục không làm yếu mềm lòng họ… do vậy họ là người biết cách sống. bởi vậy biết cách sống nên họ có thể sống được trên 100 tuổi mà bước đi vẫn chưa suy yếu.
Quan niệm người xưa: giữ giàng 3 của quí tinh, khí, thần (tam bảo).
Tinh là cơ sở vật chất để cơ thể sinh trưởng phát dục và sinh đẻ.
Khí tương đương với khí trời và chức năng sinh lý của cơ thể (năng lượng)
Thần hoạt động thần kinh
Những cách giữ gìn 3 của quí đó:
Dưỡng sinh (luyện nội tạng thân).
Điều tâm (luyện hoạt động tinh thần).
Điều tức (luyện thở).
Các phương pháp giữ giàng sức khoẻ cựu truyền:
Phật giáo:
Yoga (Ấn Độ).
Lục diệu pháp (Trung Quốc).
Đạo giáo:
Đạo chu thiên.
Tiêu chu thiên.
Tĩnh toạ hô hấp pháp.
Trong y giới:
Phóng tùng công (tập giãn cơ thể).
Tĩnh công (tập yên tĩnh).
Tĩnh toạ hô hấp pháp.
Khí công được lưu truyền từ đời này tắt hơi khác với mục đích khác nhau:
Phật giáo → thành phật.
Đạo giáo → tiên (trường thọ văng mạng).
Y giới → giữ gìn sức khoẻ (phòng bệnh và chữa bệnh).
1956 Trung Quốc có khí công (nội dưỡng công, cường tráng công, bảo kiện công…).
Châu Âu: nghiên cứu Yoga (Ấn Độ) thở theo ý muốn.
Việt Nam: thế kỷ XIV đã đề ra:
“Bế tinh dưỡng khí tôn thần
Thanh tâm quả dục thủ trân luyện hình”
Đó là phương pháp phòng bệnh và điều trị rất căn bản.
Hoàng Đôn Hoà XVI “Tĩnh công quyết yếu” (thập nhị đoạn cẩm).
Đào Công Chính (thế kỷ XVII) “Dưỡng sinh đạo dẫn”.
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) thế kỷ XVIII trong vệ sinh quyết yếu diễn ca:
“Cần lao thân thế khang cường
ý thức vui vẻ gân xương chuyển đều
Và nhàn cơ ủ rũ ý thức
Nằm nhiều huyết khí kém phần lưu thông”
Năm 1960 Viện nghiên cứu Đông y Hà Nội mở các lớp khí công: Nguyễn Khắc Viện, Thế Trường có kết quả tốt.
Tóm lại: khí công có lịch sử lâu đời là phương pháp tự luyện tập để nâng cao thể chất giữ sức khoẻ phòng bệnh và chữa bệnh tương đối hoàn chỉnh và toàn diện. Nội dung khí công bao gồm 2 phần:
Luyện ở phong thái tĩnh
Luyện ở phong thái động
Đặc điểm khí công.
Tương đối toàn diện, tiêu hao ít năng lượng mang lại hiệu quả cao
Luyện sự ngơi nghỉ yên tĩnh là chính.
Điều chỉnh sự mất cân bằng của hệ thần kinh và tâm thần thực vật.
Vừa chữa bệnh tật vừa chữa người bệnh.
Là phương pháp tự tập tành.
Cơ sở khoa học.
nguyên cớ bên trong (nội nhân).
Nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân).
Khâu quyết định là dạng chức năng của thân thể.
Lưu thông khí huyết (luyện hình, luyện nội tạng) (thông bất thống, thống bất thông).
Qua rà:
Điện não: tăng cường quá trình ức chế.
Điện thế ở da rút ngắn khi ngủ.
Bài tiết nước miếng tăng.
Nhu động ruột, bao tử tăng.
Tăng cường chức năng các tạng phủ cốt tử là điều hoà.
Nội dung.
Luyện ở phong thái tĩnh.
phong độ (nằm, ngồi, đứng)
Luyện ý: luyện hoạt động của vỏ não (2 qui trình hưng phấn và ức chế)
Luyện chí (có tư duy) :
Chính niệm.
Ác niệm.
Tạp niệm.
Yếu lĩnh của luyện ý: hội tụ canh phòng một vùng của thân thể.
Các cách luyện ý: làm giãn cơ thể.
Luyện thở:
Phương pháp thở sâu, thở thiên nhiên, thở có nín thở.
Yếu lĩnh: êm, nhẹ, đều, Sâu( chậm - sâu - dài, hít vào bụng phồng lên).
Yêu cầu: tụ tập tư tưởng, nghe thấy, nhìn thấy, theo dõi.