Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 5 tháng 9, 2021

Lịch sử y học cổ truyền Việt Nam và phương hướng kết hợp hai nền y học

Lịch sử y khoa cổ truyền Việt Nam và phương hướng phối hợp hai nền y khoa

y học cổ truyền dân tộc Việt Nam; nền y học của 54 bộ tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài hàng nghìn năm cần lao sản xuất, chiến đấu với tự nhiên để dựng nước và giữ nước, giao lưu với các dân tộc khác trong khu vực, nên Việt Nam có nền y học truyền thống rất phong phú và đa dạng. Thuốc cổ truyền Việt Nam có nguồn gốc: thực từ vật, động vật và khoáng vật.

Lịch sử y khoa cựu truyền Việt Nam.

Việt Nam có địa sinh vật học riêng.

Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: kim ô có khoảng 5 tỷ năm.

Thời đại cổ sinh cách đây 600 triệu năm.

Thời nguyên đại trung sinh cách đây 200 triệu năm, giải giang sơn ta lúc đầu như mầm xương sống hình chữ S đó là dãy núi Trường Sơn.

Thời đại Tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp hợp thành đất liền Á châu có kết cấu địa chất địa tầng có sông, núi…

Cuối thời kỳ Đệ Tam đã có vượn cao cấp cách đây 10 - 20 triệu năm. Nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh con người Việt Nam xuất hiện từ thời kỳ cải cách, cái nôi của loài người và cũng là cái nôi của các thuốc thảo mộc.

Do thời kỳ thăng hà kéo dài Thuỷ Canh Tân đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói riêng và ở Đông Nam á nói chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển trào lên phối hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện tiện lợi cho thực vật phát triển nguồn thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây động vật để sống đồng thời cũng chọn lựa thiên nhiên những động vật và cây cỏ để ăn để chữa bệnh. nên thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác, đời này sang đời khác và tồn tại đến nay. sang hàng ngàn năm lịch sử, y khoa cổ truyền Việt Nam đã đúc kết được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc quí: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu, hương phụ… được lưu truyền đến hiện tại.

Việt Nam có lịch sử xã hội lâu đời.

Việt Nam có nhà nước Văn Lang từ đời Hồng Bàng năm 2879 trước Công Nguyên; thời đại các Vua Hùng, tiên tổ ta sớm dùng thuốc có cỗi nguồn thực vật, động vật và khoáng chất để làm thuốc. Ngoài ra còn biết sử dụng cả thuốc độc tẩm vào tên, giáo mác để chống giặc ngoại xâm… Hiện nay có tượng và miếu thờ An Kỳ Sinh - Nhà châm cứu Việt Nam trước hết tại Trúc sơn, Yên Tử, Huyện

Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh. Tượng và miếu thờ Bảo Cô - Nhà nữ châm cứu

(thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Tài liệu do Giáo sư bác sĩ dân chúng Nguyễn Tài Thu Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam sưu tầm.

Hơn một thiên niên kỷ dân tộc Việt Nam dưới ách xâm lăng nô dịch và đồng hoá của phong kiến Trung Quốc. Các dược liệu quí hiếm đều bị cướp bóc mang về chính quốc. Thời kỳ độc lập dưới các triều đại phong kiến (938 - 1884) sau thắng lợi Bạch Đằng của Ngô Quyền từ 938 nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập.

Đời lý (1010 - 1224) có tổ chức thái y viện ở đế kinh cũng như ở các địa phương.

Đời Trần (1225 - 1399) phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp nơi, nhiều danh y nổi danh trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh hiệu là Tuệ Tĩnh, quê Nghĩa Phú, Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Hưng, đỗ là Tiến sĩ nhưng đi tu, tác phẩm y học nổi tiếng của ông là “Nam dược thần hiệu” 11 quyển, chọn lọc 580 vị thuốc phân loại theo nguồn cội (23 loại); cỏ hoang, dây leo, mọc ở nước, có cánh chim, cầm thú… chọn lựa dược chất có trong nước tổ chức thành 8 - 873 bài thuốc điều trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.

Tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư y thư” tóm lược tác dụng 630 vị thuốc theo biện chứng luận trị, Ông được tôn là thánh thuốc nam. Năm 1335 Tuệ Tĩnh được mời sang Trung Quốc chữa bệnh cho Vua nhà Minh và bị giữ lại cho đến khi chết.

Đời Hồ (1400 - 1406) phát triển châm cứu có Nguyễn Đại Năng soạn cuốn sách “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…

Thời kỳ đô hộ của giặc Minh Trung Quốc (1047 - 1472), trong 20 năm dưới ách đô hộ của Triều Minh y học dân tộc bị tổn thất nghiêm trọng.

Hậu Lê (1428 - 1788) có bộ luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1460 - 1479) ban hành qui chế làm thuốc, 1665 Lê Huyền Tông 2 lần ra lệnh cấm hút thuốc lào; ở Triều đình có Thái y viện, các tỉnh có tế sinh đường, ở quân đội có sở lương y Hoàng Đôn Hoà và Trịnh Đôn Phát là danh y phục vụ trong quân đội nhà Lê. Tác phẩm nổi danh của Ông là sách “Hoạt nhân toát yếu”; Ông được Vua Lê

Thánh Tông sắc phong sáu chữ vàng“lương y Quốc - Thọ Tư Dân”. giờ quần chúng. # lập đền thờ Hoàng Đôn Hoà tại quê ông: Đa sĩ, Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Tây.

Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1720 – 1791) quê Văn Xá Yên Mỹ Hải Hưng ông đã tóm được y lý y học cổ truyền phương Đông, tổng kết những thành tựu y khoa cổ truyền Việt Nam từ trước đến thế kỷ XVIII và đã ứng dụng sáng tạo những tinh hoa y học cổ truyền vào điều kiện thời tiết khí hậu liên hệ đến đặc điểm phát bệnh ở nước ta. Tác phẩm “Hải Thượng Lãn Ông y tâm lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập, 66 quyển, đến nay vẫn được coi là bộ sách bách khoa về y học cổ truyền. Ông đã tổng kết sáng tác hoàn chỉnh hệ thống hoá nền y khoa truyền thống Việt Nam trên các lĩnh vực; nội khoa, ngoại khoa, sản phụ và nhi khoa, ngũ quan khoa trên phương diện chẩn trị dự phòng từ lý pháp đến phương dược, từ y đức đến y sử, y thuật đến các lĩnh vực thiên văn y khoa và thực trị học. Về dược học Lãn Ông đã sưu tầm thêm 300 vị thuốc tổng hợp thành 2854 bài thuốc kinh nghiệm. Nét độc đáo trong biện chứng luận trị y khoa cổ truyền của Lãn Ông đến nay và mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động chẩn trị theo y lý cựu truyền của các thế hệ thầy thuốc y khoa dân tộc Việt Nam.

Thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ (1884 - 1945)

Thực dân Pháp đưa y học phương Tây vào nước ta giải thể các tổ chức y tế Triều Nguyễn (y khoa phương Đông và y học dân tộc). thực hành chính sách ngu dân chia để trị, khinh thường y khoa truyền thống dân tộc, hiện vẫn còn tản dư ở một số tri thức coi thường y khoa dân tộc cần phải khắc phục để xây dựng nền y học xã hội chủ nghĩa.

Phương hướng phối hợp YHHĐ với YHCT của Đảng và nhà nước ta.

Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời. Mặc dù phải sang 2 cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam do chủ toạ Hồ Chí Minh sáng lập chính phủ ta rất chú trọng phát triển y tế nói chung và phát triển y học cổ truyền nói riêng. Phong trào dùng thuốc ta theo “toa căn bản” ở Nam bộ đã đóng góp đáng kể trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho các lực lượng vũ trang và nhân dân. Ngày 27 - 2 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi cho ngành y tế: “… y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng… tổ tiên ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý về cách chữa bệnh bằng thuốc nam thuốc bắc, để mở mang phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu kết hợp thuốc Đông y với Tây y…”

Nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã ghi rõ phương hướng kết hợp 2 nền y khoa “kết hợp chặt đẹp Đông y với Tây y trong công tác y tế trên các mặt phòng bệnh, chữa bệnh, sản xuất thuốc ta, đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học”

Chỉ thị 101/TTg của thủ tướng chính phủ cũng ghi cụ thể: “Trên cơ sở khoa học, thừa kế, phát huy những kinh nghiệm tốt của Đông y với Tây y nhằm tăng cường khả năng phòng bệnh và chữa bệnh cho quần chúng. # tiến lên xây dựng một nền y khoa Việt nam từng lớp chủ nghĩa”

Chỉ thị 21/CP ngày 19/2/1967 của thủ tướng chính phủ. Chỉ thị 210 TTG/VP ngày 6/12/1966 về công tác dược chất. Triển khai quyết nghị Đại hội

Đảng IV, V Nghị quyết 200 - CP ngày 21/8/1978 và NQ 266 - CP ngày 19/10/1978. hiện tại việc phối hợp 2 nền y học đã được ghi trong hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, trở thành một pháp lệnh của quốc gia. Nghị quyết Đại hội Đảng VII (1991) “phối hợp y khoa đương đại với y khoa cổ truyền từng bước đương đại hoá y khoa cổ truyền, gìn giữ bản sắc y học cổ truyền. hiện giờ Hội nghị Trung ương 4 khoá 7 có riêng Nghị quyết về y khoa cổ truyền: “khai triển mạnh mẽ việc nghiên cứu, ứng dụng và đương đại hoá y khoa cổ truyền dân tộc phối hợp với y khoa đương đại, phát triển nuôi trồng cây con làm thuốc, trang bị thêm phương tiện cho việc khám chữa bệnh và sản xuất thuốc y học cựu truyền dân tộc. Khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ và cán bộ đầu đàn y học dân tộc. Tăng thêm đầu tư và nâng cấp các cơ sở y khoa dân tộc” phối hợp hai nền y học đã trở nên phương châm của ngành y tế. Về tổ chức của Bộ y tế có Vụ y khoa cựu truyền, có viện y khoa dân tộc, có 2 viện nghiên cứu dược khoa dân tộc ở thủ đô Hà nội và tỉnh thành Hồ Chí Minh, tỉnh có viện y học dân tộc tỉnh, trong các viện đa khoa tỉnh có khoa y học dân tộc, trong các bệnh viện huyện, trạm y tế xã cũng đều có bộ phận y học cựu truyền.

Trong quân đội có viện y học dân tộc quân đội, Học viện Quân y có Bộ môn y học dân tộc, cục quân y có phòng y khoa dân tộc, các bệnh viện loại A đa khoa, loại B, các quân khu, quân đoàn, quân chủng đều có bộ phận y học dân tộc.

Về tổ chức dân chúng có hội y khoa cựu truyền, Việt Nam có hội châm cứu Trung ương được thành lập ở hầu khắp trên 64 tỉnh và tỉnh thành thị xã; hiện đã trở thành tổ chức chuyên môn rộng khắp từ trung ương đến các cơ sở.

Phương hướng kết hợp hiện giờ.

Theo tinh thần của thưa chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV là: “Để không ngừng nâng cao khả năng chất lượng phòng và chữa bệnh phải phối hợp chặt đẹp giữa y học đương đại với y khoa cựu truyền dân tộc, vận dụng phát triển những thành quả tiền tiến của y khoa thế giới, đồng thời coi trọng đúng mức việc phát triển y khoa dân tộc, tích cực thừa kế ứng dụng nâng cao những thành quả và kinh nghiệm của y học dân tộc, từng bước xây dựng nền y học Việt nam; mở rộng một cách có kế hoạch nguồn dược liệu thiên nhiên phong phú trong nước, xây dựng nền y dược học Việt nam, chóng vánh phát triển công nghiệp dược phẩm và đẩy mạnh sinh sản thiết bị y tế”. quyết nghị 46 của Bộ chính trị ngày 232-2005 cũng nhấn mạnh: "... Đẩy mạnh việc nghiên cứu thừa kế bảo tàng và phát triển y dược học cựu truyền thành một chuyên ngành khoa học. "

Tại các tuyến Trung ương kết hợp chặt trong chẩn đoán: chẩn đoán bệnh dựa trên thành tựu YHHĐ kết hợp với y lý cổ truyền. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh, tiêu chuẩn đánh giá dựa trên y học đương đại kết hợp với chẩn trị y khoa cổ truyền. Về điều trị tuỳ theo tình trạng của bệnh nhân và khả năng bảo đảm thuốc theo từng tuyến có thể ứng dụng cổ phương, nghiệm phương hay đối pháp lập phương, có thể dùng thuốc, dùng châm xoa bấm hoặc thuốc châm xoa bấm kết hợp. mở mang quan hệ cộng tác quốc tế với các nước phương Tây. Hoà nhập với tổ chức y tế thế giới (OMS), tổ chức đã và đang kêu gọi các nước phát triển y khoa cổ truyền góp phần đưa y học cổ truyền dân tộc vào chương trình chăm chút sức khoẻ ban đầu của cộng đồng, đóng góp tích cực trong dự phòng và bảo vệ sức khoẻ quần chúng.

Các bước tiến hành ở các tuyến.

Trên cơ sở khoa học đương đại kết hợp với y học phương Đông mà thừa kế chỉnh lý nâng cao phát huy và phát triển hệ thống lý luận y khoa cổ truyền dân tộc Việt Nam.

phối hợp YHHĐ với YHCT trên các mặt: phòng bệnh, chữa bệnh và sinh sản thuốc đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học.

Tiến tới xây dựng một nền y học Việt nam từng lớp chủ nghĩa có đầy đủ thuộc tính; khoa học, dân tộc và đại chúng.

Back To Top