Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Bảy, 11 tháng 9, 2021

Miễn dịch chống vi sinh vật

Miễn dịch chống vi sinh vật

Nhiễm trùng là căn nguyên gây đốn gây bệnh tật và tử vong trên khắp thế giới. Chỉ riêng ở châu Phi, Tổ chức Y tế Thế giới đã ước tính có khoảng 100 triệu người mắc sốt rét. Bệnh nhiễm trùng cũng lôi cuốn sự chú ý của nhiều người bởi các lý do: (1) sự xuất hiện nhiễm trùng có thể gọi là “mới” như bệnh Legionaires và AIDS; (2) thực tại lâm sàng đã làm biến đổi mô hình nhiễm trùng bệnh viện; (3) ngày càng gia tăng s ố bệnh nhân b ị suy yếu miễn nhiễm dẫn đến nguy cơ tăng các loại nhiễm trùng dịp; (4) có quan niệm cho rằng một số bệnh xảy ra là do đáp ứng của thân thể đối với vi sinh vật đã tự gây thương tổn cho mình một cách không đặc hiệu; và (5) ngày một gia tăng các loại bệnh nhập khẩu do tăng giao lưu quốc tế theo đường hàng không.

Đối với nhiễm trùng, một cân bằng được duy trì giữa sức chống đỡ của thân và khả năng của vi sinh vật nuốm để vượt qua sức chống đỡ đó. Sự nghiêng lệch của cân bằng này đã tạo ra độ trầm trọng của bệnh cảnh (Bảng 8.1).

Bảng 8.1. Các nguyên tố ảnh hưởng đến phạm vi và độ trầm trọng của nhiễm trùng

CÁC yếu tố liên hệ ĐẾN VI SINH VẬT

Số lượng (tức mức độ tiếp xúc)

Động lực vi sinh vật

Đường vào

CÁC yếu tố CỦA thân thể CHỦ

Tính nguyên lành của miễn nhiễm không đặc hiệu

Khả năng hệ thống miễn dịch

Khả năng di truyền về đáp ứng bình thường đối với từng vi sinh vật

Đã từng tiếp xúc trước hay chưa

Trong phạm vi tài liệu này, chúng ta không đàm đạo kỹ về độc lực, bởi vậy nhiễm trùng xảy ra hay không sẽ phụ thuộc vào đáp ứng miễn dịch có tỏ ra đầy đủ hoặc phù hợp hay không.

miễn nhiễm chống virus

Virus và đáp ứng miễn nhiễm

Virus có những thuộc tính độc đáo riêng: (1) chúng có thể xâm nhập vào mô mà không gây ra một đ áp ứng viêm; (2) chúng có thể nhân lên trong tế bào trong đời sống cơ thể chủ mà không gây ra thương tổn tế bào; (3) đôi khi chúng ngăn cản mộ t số chức năng đặc biệt của tế bào mà không gây thể hiện ra ngoài; và (4) cũng có khi virus gây tổn thương mô hoặc ngăn trở sự phát triển tế bào và rồi biến mất hoàn toàn khỏi cơ thể.

Gần đây, người ta phát hiện được rằng một số bệnh trước đây không rõ căn do như viêm não xơ hóa bán cấp, bệnh não chất trắng đa tiêu điểm tiến triển (progressive multifocal leukoencephalopathy) bệnh Creuzfeld - Jacob, bệnh Curu lại là những bệnh có can hệ đến virus hoặc những vật thể giống virus. diễn đạt lâm sàng của bệnh virus rất đa dạng và một số thí dụ được biểu hiện ở Bảng 8.2.

Nhóm virus herpes bao gồm ít nhất 60 virus, trong đó có 5 con rất hay gây bệnh cho người: Herpes simplex (HSV) typ 1, HSV typ 2, Varicella zoster (VZV), cytomegalovirus (CMV) và Epstein-Barr (EBV). Có hình ảnh bệnh lý chung cho tất tật các virus nhóm herpes ở người, đó là: Một, để truyền được người này sang người khác phải có sự tiếp xúc gần gụi trực tiếp, trừ việc truyền máu và ghép cơ quan là đường truyền hiệu quả nhất của CMV. Hai, sau lần nhiễm trước nhất virus herpes sẽ tồn tại trong thân suốt đời.

Để hạn chế sự lan tỏa của virus và phòng ngừa tái nhiễm hệ thống miễn dịch phải có khả năng chặn đứng sự thâm nhập của các hạt virion và tế bào cũng như loại bỏ các tế bào bị nhiễm để giảm nơi trú ngụ của virus. Như vậy, các phản ứng miễn dịch có hai loại: Một loại để tác động lên các hạt virus và một loại tác động lên tế bào nhiễm. Một cách tổng quát, đáp ứng miễn dịch chống virion có thiên hướng trội về thể dịch còn đáp ứng tế bào thì tác dụng lên tế bào nhiễm virus. Cơ chế thể dịch chủ yếu là trung hòa, nhưng phản ứng thực bào phụ thuộc bổ thể và phản ứng ly giải phụ thuộc bổ thể cũng có thể xảy ra.

Trung hòa virus cản trở sự tiếp cận của chúng đến các tế bào đích. Đây là chức năng của kháng thể IgG trong dịch ngoại bào và của IgA trên bề mặt niêm mạc. Chúng ta cần nhớ rằng, chỉ những kháng thể chống lại các thành phần chịu nghĩa vụ về khả năng tiếp cận mới có tính trung hòa: Sự tạo ra kháng thể có độ đặc hiệu xác thực là nguyên tắc căn bản để sinh sản vacxin virus. Những kháng thể chống lại những kháng nguyên không cấp thiết không chỉ không có tác dụng bảo vệ mà còn tạo điều kiện để hình thành phức hợp miễn nhiễm.

Mặt dù chỉ cần kháng thể IgG là đủ để trung hòa hầu hết virus, nhưng sự hoạt hóa bổ thể tỏ ra cũng rất có ích trong việc làm tăng cường khả năng loại trừ virus. Sự ly giải virus cũng có thể thực hành chỉ nhờ vào b ổ thể mà không cần có kháng thể. Một số virus như EBVcó thể gắn với C1và hoạt hóa bổ thể theo đường cổ điển để chung cuộc là hạt virion bị ly giải.

miễn dịch qua trung gian tế bào can dự tế bào bị nhiễm virus hơn là virus tự do. Lymphô T nhận diện virus trong sự kết hợp với các glycoprotein của phức hệ hòa hợp mô cốt yếu (MHC). Tế bào T gây độc sẽ ly giải tế bào đã bị virus đột nhập hoặc làm thay đổi kháng nguyên bề mặt. Như vậy, miễn dịch tế bào (tế bào T) chịu nghĩa vụ trong quá trình bình phục sau nhiễm virus, chứ không phải trong thời đoạn cấp tính của bệnh.

Bảng 8.2. Hình ảnh lâm sàng của nhiễm virus herpes

Loại virus

biểu lộ lâm sàng

Chất truyền nhiễm

Nơi tiềm tàng

Herpes simplex typ 1

Viêm miệng -lợi cấp

Herpes simplex

Viêm giác-kết mạc

Viêm não

Nhiễm trùng lan tỏa

tổn thương da khu trú

Chất tiết miệng –đường hô hấp

xúc tiếp da

Hạch dây V

Herpes simplex typ 2

Herpes sinh dục

Viêm màng não

Nhiễm trùng lan tỏa

tổn thương da khu trú

(Ung thư cổ tử cung )

Dường sinh dục

Qua bào thai

Hạch cùng

Varicela zoster

Thủy đậu

Thủy đậu tiến triển

Thủy đậu bẩm sinh

Herpes zoster

Herpes zoster lan tỏa

Chất tiết miệng –đường

hô hấp

tiếp xúc da

Bẩm sinh

Hạch rễ ngực

Cyto-megalo

-virus (CMV)

Nhiễm CMV bẩm sinh

Viêm gan

Viêm phổi

Viêm võng mạc

Đơn nhân nhiễm CMV

Đơn nhân nhiễm khuẩn

Bẩm sinh

Qua bào thai

Miệng – hô hấp

Sinh dục

Không rõ, có thể do truyền máu, ghép

bạch cầu

Tế bào biểu mô tuyến mang tai, cổ tử cung, ống thận

Epstein Barr

(EBV)

U lympho Burkitt

Ung thư vòm

Chất tiết miệng – đường hô hấp

Lympho B

Tế bào biểu

mô vòm hầu

phần đông nhiễm trùng virus đều tự giới hạn. Trên một số người, virus có thể tạo ra triệu chứng lâm sàng trong lúc đó trên một số người khác thì bệnh không bao giờ vượt quá tuổi tiền lâm sàng. Sự phục hồi sau nhiễm trùng virus cấp thường để lại tính miễn nhiễm lâu dài và ít khi thân thể bị tiến công lần hai bởi cùng loại virus đó.

Tác động trực tiếp của virus

Hướng tính của virus (viral tropism) là một nguyên tố căn bản để xác định tầm quan trọng lâm sàng của nhiễm trùng virus, là một nhiễm trùng phụ thuộc không những vào số lượng tế bào bị phá hủy còn phụ thuộc vào chức năng của những tế bào đó. Sự phá hủy một số lượng nhỏ tế bào có chức năng biệt hóa cao như dẫn truyền tâm thần hoặc điều hòa miễn dịch cũng có thể gây nguy hiểm cho tính mệnh bệnh nhân. Ngược lại, sự phá hủy một lượng lớn những tế bào ít biệt hóa như tế bào biểu mô chả hạn nhưng hậu quả lại ít trầm trọng hơn nhiều.

Càng ngày người ta càng hiểu biết nhiều hơn về các thụ thể virus và tương tác giữa thụ thể này với virus. Virus Epsptein-Barr dùng thụ thể của C3b (tức CR2), còn HIV thì lại dùng thụ thể CD4 để làm nơi thâm nhập vaìo tế bào đích trong hệ thống miễn dịch .

Một khi vào trong tế bào, virus có thể giết tế bào bằng nhiều cách. Một số virus như polyovirus, adenovirus và các sản phẩm của chúng có thể ức chế các enzym cấp thiết cho sự nhân lên hoặc chuyển hóa tế bào. Một số virus khác có thể phá hủy cấu trúc nội bào như tiêu thể chả hạn làm phóng thích ra các enzym độc hại làm chết tế bào. Trong một số trường hợp, protein của virus gắn với màng tế bào làm thay đổi thuộc tính của nó: ví dụ như virus sởi có hoạt tính gây hòa màng làm cho các tế bào kết hợp với nhau thành những hợp bào (syncytia) .

Một số virus có thể làm thay đổi chức năng đã chuyển hóa của tế bào mà không giết chết chúng. Những tế bào này thường là tế bào của hệ miễn dịch, thần kinh trung ương hoặc hệ nội tiết. ví dụ các virus sởi, cúm, CMV thường nhiễm vào tế bào lympho người và biến đổi chức năng của chúng. trong thời kỳ nhiễm trùng, các virus biến tướng được sản xuất một cách lựa chọn trong lách và có thể ức chế sự hình thành các tế bào T gây độc. Hậu quả là virus không bị loại bỏ khỏi thân mà sống suốt đời với ký chủ.

lẩn tránh của virus (cơ chế tồn tại của virus trong thân)

Virus thường tạo ra nhiều cơ chế khác nhau để trốn tránh hoặc cản trở tác động của hệ miễn nhiễm.

thay đổi tính kháng nguyên là cách thấy rõ nhất đối với virus cúm A, một loại virus RNA được bỏ bởi một vỏ lipid có gắn với hai loại protein: hemagglutinin và neuraminidase. Đa số kháng thể trung hòa tác động lên hai quyết định kháng nguyên này. Virus có thể lẩn tránh tác động của kháng thể bằng cách đổi thay cấu trúc của hemagglutinin: đổi thay dần tính kháng nguyên (antigenic drift) hoặc đột biến tính kháng nguyên (antigenic shift).

đổi thay dần tính kháng nguyên là sự thay đổi từng phần nhỏ cấu trúc kháng nguyên khi virus truyền từ các thể này sang cá thể khác bằng cách gây đột biến điểm trên bề mặt kháng nguyên của hemagglutinin. thay đổi này có nhẽ chịu trách nhiệm về các dịch cúm nhỏ vào mùa đông.

thay đổi tính kháng nguyên là sự thay đổi đột ngột quơ cấu trúc của hemagglutinin. Người ta đã quan sát thấy 3 lần đổi thay kháng nguyên kiểu này vào vụ đại dịch cúm năm 1918, dịch cúm châu Á năm 1957, và dịch cúm Hồng Kông năm 1968.

Nếu đáp ứng miễn nhiễm không loại trừ được hoàn toàn virus thì sẽ xuất hiện một tình trạng nhiễm trùng nhẹ với sự tồn tại dai dẳng của một số virus trong thân. ví dụ, viêm gan B có thể tồn tại nhiều tháng hoặc nhiều năm và gan liên tục mang virus.

ngoại giả, virus cũng có thể tạo ra tình trạng tiềm tàng nếu genom virus tồn tại mãi trong tế bào chủ mà chẳng thể hiện tính kháng nguyên virus. cả thảy các virus herpes người đều có thể tồn tại tiềm ẩn, đôi khi có những đợt hoạt động và nhân lên. Khi sự thăng bằng giữa virus và thân thể chủ bị phá vỡ do nhiễm trùng, rối loạn chuyển hóa, tuổi già , hoặc ức chế miễn dịch thì virus được hoạt hóa và sau đó có thể gây ra bệnh. Thường thường mỗi virus có nơi tiềm ẩn riêng của nó (Bảng 8.2): tỉ dụ virus herpes simplex tiềm ẩn ở hạch dây V, Varicella zoster tiềm tàng ở hạch rễ thần kinh ngực .

Sự chuyển dạng tế bào chủ có thể xảy ra do tác động của một số virus có khả năng gây bệnh ung thư (Bảng 8.3). hồ hết các virus loại này tồn tại tiềm tàng, thí dụ, HTLV-I gây bệnh bạch huyết cầu tế bào T ở người lớn, virus viêm gan B gây bệnh ung thư tế bào gan và EBV có thể gây ung thư vòm họng hoặc u lymphô Burkitt.

Bảng 8.3. Virus và các bệnh ác tính liên tưởng

BỆNH ÁC TÍNH

VIRUS

Một số bệnh bạch cầu tế bào T

Ung thư cổ tử cung

U lymphô Burkitt

Ung thư vòm

Ung thư da

Ung thư tế bào gan

Virus bệnh bạch huyết cầu tế bào T ở người

Herpes simplex

Papilomavirus ở người

Virus Epstein-Barr

Virus Epstein-Barr

Papilomavirus

Virus viêm gan B

Một số virus có thể ngăn cản đáp ứng miễn dịch bằng cách ức chế hoặc nhiễm vào tế bào miễn nhiễm (Bảng 8.4).

ví dụ, nhiễm trùng CMV tiên phát gây bệnh điển hình ở người trẻ. Đáp ứng tạo kháng thể xảy ra nhanh, có thể thấy được, nhưng đáp ứng miễn nhiễm tế bào thì lại bị ức chế: Trong nhiều tháng có thể không thấy có đáp ứng tế bào T đặc hiệu với CMV. Ngoài ra, trên thực nghiệm người ta còn thấy rằng miễn nhiễm tế bào đối với các lần thử thách kháng nguyên trước không xuất hiện, có khi đến cả năm trời. Trong thời kì này, bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng vi khuẩn lặp đi lặp lại nhiều lần. Hiệu quả gây ức chế miễn nhiễm này cũng thấy ngay cả những người đã có ức chế miễn dịch từ trước, thí dụ như người nhận mảnh ghép chả hạn.

Virus sởi có khả năng nhân lên trong tế bào T dẫn đến kết quả là gây giảm miễn nhiễm tế bào. Trước đây, khi chưa điều trị được bệnh lao, bệnh nhân mắc bệnh sởi cấp dễ dàng dẫn đến mắc lao kê.

thí dụ điển hình nhất cho hiện tượng này là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) do HIV gây ra. Virus này đã lựa chọn tế bào lymphô T CD4 + để tiêu diệt. Trình trạng ức chế miễn dịch sau đó dẫn đến sự xuất hiện của các nhiễm trùng thời cơ lan tỏa và trầm trọng hoặc các bệnh cảnh ung thư đặc biệt cho bệnh này.

tổn thương do đáp ứng miễn nhiễm chống virus

mặc dầu phản ứng miễn nhiễm nói chung là có lợi. đôi khi chúng cũng gây ra tổn thương mô khó phân biệt với tổn thương do chính virus gây ra.

Bảng 8.4. Một số hậu quả sau nhiễm virus của tế bào hệ miễn dịch

Trong thời kỳ hồi phục sau nhiễm trùng virus (thí dụ đơn nhân nhiễm khuẩn hoặc viêm gan B), trên một số bệnh nhân người ta thấy xuất hiện các tự kháng thể lưu động do tế bào B vẫn còn khả năng đáp ứng v ới kháng nguyên bản thân khi chúng được trình diện một cách ăn nhập cho tế bào T. Dung nạp miễn dịch thường ngày đối với kháng nguyên tự thân do tế bào T ức chế cáng đáng là cốt yếu, nhiễm trùng virus đã phá vỡ sự dung nạp này bằng hai cách:(1) những virus như EBV là những tác nhân hoạt hóa tế bào B đa clôn, và (2) virus có thể gắn lên kháng nguyên bản thân để làm cho chúng trở thành kháng nguyên mới. Kháng thể đối với những kháng nguyên mới này sẽ tác động lên cả các mô tự thân bình thường lẫn các tế bào đã nhiễm virus. Sự tồn tại lâu dài của nhi ễm trùng virus có thể dẫn đến bệnh tự miễn trên một cá thể hạp. Một số ví dụ hình thành bệnh gan tự miễn mãn tính trên một số bệnh nhân bị viêm gan siêu vi B.

Một số virus lại có kh ả năng kích thích tạo những kháng thể không hiệp làm tăng thêm thương tổn mà virus đã gây cho thân thể chủ. thí dụ, virus Dengue có thể nhiễm vào đại thực bào qua đường thụ thể Fc, và khả năng của nó thâm nhập vào tế bào đích sẽ được tăng cường nếu nó gắn với kháng thể IgG. Như vậy, nhiễm trùng lần thứ hai bởi một týp huyết thanh khác sẽ được làm dễ bởi kháng thể do týp huyết thanh trước tạo ra.

Sự tiến công của kháng thể vào những tế bào nhiễm virus có thể gây ra hiệu quả bất lợi. Kháng thể kháng virus hoặc phức hợp miễn nhiễm tạo nên do virus và kháng thể có thể cản trở không cho tế bào lympho nhận mặt hoặc phản ứng với kháng nguyên virus, do đó ức chế đáp ứng miễn nhiễm tế bào; đó là trường hợp của viêm não xơ hóa bán cấp. Trong trường hợp này hình ảnh bệnh lý cho thấy có sự mất myelin thay thế bằng xơ hóa liên tụ c dẫn đến các rối loạn thần kinh trầm trọng. Khoảng một nửa trong số bệnh nhân này đã từng bị mắc sởi vào hai năm tuổi trước hết. Trong khi đó trong quần chúng thì tỉ lệ người mắc sởi chiếm tỉ lệ cao nhất vào lứa tuổi từ 5 đến 9. Sự tiếp xúc với virus sởi vào thời điểm sớm của đời sống có lẽ đã giúp cho virus dễ dàng tồn tại trong não dưới dạng virus hoàn chỉnh. do cơ thể đã sản xuất một lượng kháng thể kháng sởi t ương đối cao, phức hợp miễn dịch tạo bởi virus và kháng thể đã ức chế phản ứng miễn nhiễm tế bào.

Người ta cho rằng nhiều bệnh viêm mãn tính ở người như viêm cầu thận mạn có can dự đến sự lắng đọng của phức hợp miễn dịch vày chúng rất giống với các mô hình virus thực nghiệm. Tuy vậy, trong phần đông các trường hợp, virus bệnh nguyên tương đối khó xác định.

Một tỉ dụ kinh điển cho các thương tổn gây ra do tế bào là viêm màng não - màng mạch lymphô ở chuột. Chuột được cho nhiễm virus trong thời kỳ sơ sinh, virus nhân lên nhanh chóng trong nhiều mô, kể cả thần kinh trung ương. Tuy nhiên, điều này không gây bệnh nặng. trái lại, nếu tiêm virus vào não của chuột trưởng thành thì có thể gây ra viêm não-màng não nặng dẫn đến tử vong; tổn thương não ở đây có thể hạn chế bằng cách làm rối loạn miễn dịch tế bào và song song có thể duy trì trở lại thương tổn sau đó bằng cách tiêm cho con vật tế bào T đã nhạy cảm từ con vật khác. Các lympho T gây độc từ con vật mẫn cảm nguyên virus trên bề mặt. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có lý do để nghi ngờ rằng cơ chế miễn dịch tế bào đã có vai trò trong việc gây viêm não trong nhiều bệnh cảnh nhiễm trùng virus ở người.

Miễn dịch t ế bào có nhẽ còn chị u nhiều nghĩa vụ trong việc gây ra các loại ban đỏ đặc trưng thường gặp trong nhiễm trùng virus ở trẻ mỏ, như trong sởi chẳng hạn. Các tiêu điểm nhỏ virus ở da có thể kích thích tạo một phản ứng quá mẫn muộn nhằm ngăn chặn sự lan tỏa và nhân lên của virus. Trẻ suy giảm miễn nhiễm tế bào rất dễ bị nhiễm trùng virus lan tỏa như sởi, herpes simplex, varicella zoster, nhưng không bao giờ bị nổi ban đỏ đặc trưng ở da.

miễn dịch chống vi khuẩn

Đáp ứng miễn nhiễm thường nhật đối với vi khuẩn

Có hai loại kháng nguyên vi khuẩn đẵn có thể gây đáp ứng miễn dịch: Các sản phẩm hòa tan của tế bào (tỉ dụ độc tố) và các kháng nguyên cấu trúc tức là một bộ phận của vách tế bào (như các lipopolysaccharide). Nhiều kháng nguyên vi khuẩn có chứa lipid gắn với glycoprotein vách; sự hiện diện của lipid dường như có tác dụng tăng cường tính sinh miễn nhiễm của kháng nguyên. phần đông kháng nguyên vi khuẩn là kháng nguyên phụ thuộc tế bào T, tức đòi hỏi lymphô T trợ giúp để khởi động miễn nhiễm, dëch thể cũng như tế bào. Tuy nhiên, có một số kháng nguyên vi khuẩn như polysaccharide của phế cầu không phụ thuộc tế bào T: những kháng nguyên này được đặc trưng bởi trọng lượng phân tử cao và có những quyết định kháng nguyên giống hệt nhau lặp đi lặp lại nhiều lần trên chuỗi phân tử. Trong phần tiếp đây chúng tôi dùng vi khuẩn liên cầu để làm ví dụ nhưng cần nhớ rằng các vi khuẩn khác cũng cho kích thích miễn nhiễm tương tự.

Tương tác giữa vi khuẩn và hệ miễn dịch có thể tạo ra nhiều hậu quả:

(1)kích thích tính miễn nhiễm bảo vệ; (2) ức chế miễn nhiễm; và (3) đáp ứng miễn dịch bất lợi có thể gây ra các tổn thương mô. Một số nhân tố cá nhân có ảnh hưởng đến tính miễn dịch đã được đề cập ở Bảng 1 ở phần trên.

Liên cầu beta tan máu (nhất là nhóm A) rất thường hay gây ra những nhiễm trùng khu trú ở da và đường hô hấp trên, nhưng nó có thể gây nhiễm trùng bất cứ cơ quan nào của thân thể. Người ta ghi nhận rằng những lứa tuổi khác nhau thường bị triệu chứng rất khác nhau khi nhiễm liên cầu. Ở con nít, khởi bệnh thường nhẹ và mơ hồ với các triệu chứng như sốt nhẹ, chảy mũi nước. Triệu chứng họng thường tối thiểu nhưng những cơn sốt bất thường vẫn có thể tồn tại trong một đôi tháng. Hình ảnh này ngược với bệnh cảnh viêm amidan cấp do liên cầu ở trẻ lớn và người lớn. Bệnh cảnh cấp tính và khu trú này có nhẽ do sự xúc tiếp trước đây với liên cầu đã làm biến đổi đáp ứng (trong cơ thể đã có kháng thể kháng độc tố và enzym liên cầu).

tổn thương mô là do các sản phẩm của liên cầu gây ra. Các sản phẩm này gồm độc tố đặc hiệu (streptolysin O và S và độc tố hồng huyết cầu) có khả năng tiêu mô và các tế bào lưu động (kể cả bạch cầu), các enzyme đặc hiệu (như hyaluronidase và streptokinase) có khả năng giúp cho sự lan tỏa nhiễm trùng, và các thành phần bề mặt của vách bào liên cầu (protein M và acid hyluronic). quờ quạng các protein này đều có tính sinh miễn dịch. Phản ứng viêm tại chỗ làm tăng số lượng tế bào bạch huyết cầu nhán đa dạng trong máu, song song các tế bào này cũng thâm nhiễm vùng họng hầu gây ra những bọc mủ tại chỗ.

Kháng thể đặc hiệu xuất hiện chậm (4 ngày) và nghe đâu không có vai trò trong việc hạn chế phản ứng nhiễm trùng liên cầu cấp lần đầu tiên. Antistreptolysin O (ASO) và anti-deoxyribonuclease B (anti-DNAse B) là hai thí điểm liên cầu có giá trị nhất trên thực tiễn lâm sàng. Hiệu giá ASO thường tăng lên sau nhiễm trùng họng, không tăng sau nhiễm trùng da; hiệu giá anti-DNAse B là một xét nghiệm đáng tin tức cho cả nhiễm trùng da và họng, do đó hữu dụng cho chẩn đoán viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu.

Một số kháng nguyên vi khuẩn ảnh hưởng trực tiếp lên hiệu quả của đáp ứng miễn nhiễm đối với nhiễm trùng. Lipopolysacharid vi khuẩn có thể làm tăng hoặc làm giảm sức đề kháng đối với nhiễm trùng thực nghiệm tùy theo thời gian nhiễm trùng. Nếu có giảm đề kháng thì thân chủ sẽ trở nên dễ nhiễm trùng đối với vi khuẩn khác. Sự suất hiện cùng lúc của lao và nhiễm nấm aspergillus phổi, hoặc sự hoạt động của lao tiềm tàng sau khi nhiễm phế cầu là những tỉ dụ về sự ức chế đề kháng của vi khuẩn.

Một số sản phẩm vi khuẩn như nội độc tố là chất kích thích rất mạnh đối với đáp ứng miễn dịch dẫn đến sự hoạt hóa lympho B đa clôn. Sự gia tăng của Ig huyết thanh trong một số trường hợp nhiễm trùng kéo dài có nhẽ là do sự kích thích đa clôn này, còn sự gia tăng kháng thể đặc hiệu chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ Ig huyết thanh mà thôi. Thường chúng ta khó phân biệt được hiệu quả gây độc trực tiếp do nhiễm khuẩn với tổn thương gây ra do phản ứng miễn dịch chống kháng nguyên vi khuẩn. Điều này được minh họa bởi các biến chứng của nhiễm trùng liên cầu .

tổn thương do đáp ứng miễn dịch chống vi khuẩn

thấp khớp cấp là một bệnh hệ thống xảy ra sau khi bị nhiễm liên cầu beta tan máu đường hô hấp trên từ 1 đến 5 tuần. Nhiễm liên cầu ở da cũng có thể gây thấp khớp cấp. Người ta nhận thấy rằng dường như thiên hướng di truyền đối với tê thấp cấp, bằng chứng là tỉ lệ mắc bệnh này ở những trẻ có ba má bị bệnh tim do thấp thì cao hơn so với những trẻ khác. đồng thời ở trẻ sinh đôi đồng hợp tử thì tỉ lệ mắc cũng cao gấp ba lần so với trẻ sinh đôi dị hợp tử.

Bệnh sinh của tê thấp cấp đã được nghiên cứu khá kỹ. duyên cớ gây thương tổn mô có nhẽ do các thành phần hoặc sản phẩm của liên cầu hơn do nhiễm trùng trực tiếp. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý đến vai trò quan yếu của phản ứng miễn dịch chống liên cầu trong cơ chế gây bệnh. Những trẻ bị bệnh thấp khớp cấp có mang một nồng độ cao kháng thể chống kháng nguyên tim. Điều này nói lên rằng viêm tim do thấp có thể gây ra do kháng thể kháng liên cầu phản ứng chéo v ới kháng nguyên tim. Người ta đã xác định là thấp khớp cấp không tác dụng lên cơ tim mà lên van tim, lên khớp, mạch máu,da và cả hệ tâm thần trung ương (trong trường hợp có bộc lộ múa vờn). phần đông các tổn thương gây nên đều qua trung gian của kháng thể vì người ta đã chứng minh được phản ứng chéo có thể xảy ra giữa: (1) kháng thể chống cacbonhydrat của liên cầu nhóm A với glycoprotein của van tim; (2) kháng thể chống protein vách liên cầu với màng sợi cơ tim và cơ vân; (3) kháng thể chống một thành phần khác của vách tế bào liên cầu với não người; (4) kháng thể chống một glycoprotein của vách liên cầu với màng đáy cầu thận; và (5) kháng thể chống hyaluronidase liên cầu với màng khớp người. ngoại giả, đáp ứng miễn nhiễm qua trung gian tế bào đối với các kháng nguyên phản ứng chéo có nhẽ cũng có vai trò trong việc gây một số biến chứng vì trên bệnh nhân thấp khớp cấp người ta thấy đáp ứng miễn dịch tế bào cũng tăng dữ dội.

Quan hệ giữa nhiễm trùng liên cầu với viêm cầu thận cấp khác với nhiễm liên cầu trong thấp khớp cấp ở hai điểm quan yếu: (1) viêm cầu thận hình như chỉ xảy ra sau nhiễm một trong vài chủng liên cầu đặc biệt gọi là chủng “gây viêm thận’’ (nephritogenic), trong khi đó, thấp khớp cấp lại liên can với rất nhiều chủng liên cầu nhóm A; và (2) nhiều bằng chứng cho thấy rằng viêm cầu thận được gây nên do sự lắng đọng phức hợp miễn dịch chứ không phải do phản ứng chéo của kháng thể.

Nhiều nhiễm trùng khác do vi khuẩn và mycoplasma cũng có thể tạo ra một đáp ứng miễn dịch tự gây hại cho bản thân mình (Bảng 8.5).

Bảng 8.5. một đôi bệnh gây ra do đáp ứng miễn nhiễm chống vi khuẩn

Kháng nguyên phản ứng chéo (Quá mẫn typ II)

Tim và liên cầu nhóm A = Viêm tim do thấp

Não và liên cầu nhóm A= Múa vờn Sydenham

kết hợp của kháng nguyên vi khuẩn với tự kháng nguyên (Quá mẫn typ II)

Kháng nguyên mycoplasma và hồng huyết cầu =Thiếu máu huyết tán tự miễn

Hình thành phức hợp miễn (Quá mẫu typ II)

Viêm nội tâm mạc miễn khuẩn bán cấp

Shunt nhĩ- thất nhiễm khuẩn = viêm mạch

Giang mai thứ phát = viêm khớp

Nhiễm khuẩn huyết lậu cầu = viêm cầu thận

Nhiễm khuẩn huyết màng não cầu

Phản ứng quá mẫn muộn (Quá mẫn typ IV)

Lao= Tạo hang và sơ hóa phổi

Phong=Bệnh lý thần kinh ngoại biên

Sự trốn tránh hệ miễn dịch của vi khuẩn

Vi khuẩn sẽ tồn tại trong cơ thể chủ yếu đáp ứng miễn nhiễm chỉ giết được một lượng vi khuẩn ít hơn lượng chúng sinh sản được. Để chống đỡ với sức đề kháng miễn dịch, vi khuẩn tạo ra nhiều cơ chế:

Tạo nhân tố gây độ c, các y ếu tố này có khả năng dính vào bề mặt niêm mạc, đi vào các mô, ức chế đề kháng của thân chủ và gây tổn thương mô. Những nhân tố gây ức chế sức đề kháng gọi là aggressin, chúng rất quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của vi khuẩn. Ví d ụ, các polysaccarid của phế cầu và màng não cầu có thể ức chế sự thực bào vi khuẩn. Nhiều aggressin cũng có tính kháng nguyên và đáp ứng miễn nhiễm chống lại chúng có thể làm cho chúng mất tác dụng.

Gây biến đổi kháng nguyên, điều này được ghi nhận rất rõ đối với trường hợp nhiễm trypanosome và cúm nhưng cũng xảy ra với cả vi khuẩn. tỉ dụ, đối với trường hợp nhiễm Borrelia recurrentis: sau khoảng một tuần nhiễm vi khuẩn, kháng thể phá hủ y vi khuẩn và bệnh nhân bớt số t. Tuy nhiên, sau 5 đến 7 ngày nữa, số vi khuẩn còn lại tạo ra sự biến đổi kháng nguyên và trở lại nhân lên cho đến khi đủ số lượng gây sốt lần thứ hai. Sau đó kháng thể mới đối với kháng nguyên biến đổi này lại xuất hiện để diệt vi khuẩn và bệnh nhân lại bớt sốt. Nhưng biến thể kháng nguyên khác lại xuất hiện. Chu kỳ này sẽ lập lại khoảng 5-10 lần trước khi mầm bệnh hoàn toàn bị loại bỏ.

Một số vi khuẩn thâm nhập qua đường niêm mạc có thể tạo ra các protease để ly giải kháng thể IgA tiết. Các vi khuẩn này bao gồm : neisseria gonorrhea, neisseria meningitis, hemophilus influenzae và streptococcus pneumoniae.

Vi khuẩn có thể tồn tại bằng cách chiếm đóng nhất thời các tế bào không thực bào, nhờ vậy chúng không bị diệt bởi kháng thể, bởi các thực bào chuyên nghiệp và một số kháng sinh. Một thí dụ là sự thâm nhập của Salmonella typhi vào những vùng sẹo không có mao mạch của túi mật và đường tiết niệu.

Các đại thực bào thường có thời gian sống khá dài, nhưng nếu chức năng thực bào của chúng bị tổn thương thì các vi khuẩn bị ăn vào sẽ không bị tiêu diệt và có thể tồn tại lâu dài cùng với đại thực bào một cách an toàn tránh khỏi sự tấn công miễn dịch. Phương án tồn tại nội bào này đã được một số vi khuẩn như lao, phong, brucella, và nocardia sử dụng gây ra tình trạng nhiễm trùng mạn tính.

Sự biến chủng sang dạng L không có vách của một số vi khuẩn như liên cầu, brucella, gonococcus và mycobateria đã giúp cho vi khu ẩn tồn tại kéo dài gây ra một số nhiễm trùng kinh niên hoặc người lành mang trùng. Dạng L giúp vi khuẩn chống lại những kháng sinh tấn công vi khuẩn có vách, và khi dừng kháng sinh thì dạng này là nguồn để tạo ra các vi khuẩn có vách thường nhật có khả năng gây bệnh.

miễn nhiễm chống ký sinh trùng

Các cơ chế miễn dịch chống ký sinh trùng

Nếu ký sinh trùng tránh được hệ miễn nhiễm và có đủ độc lực thì nó có thể giết chết thân chủ mà chúng ký sinh, nhưng trái lại, nếu chúng bị diệt dễ dàng bởi đáp ứng miễn dịch thì sự tồn tại của chúng coi như bị đe dọa. Như vậy, sự tồn tại của một loại ký sinh trùng nào đó là tả của sự cân bằng giữa khả năng trốn tránh giám sát của ký sinh trùng và tác dụng của hệ miễn dịch . Ký sinh trùng còn tạo ra đột biến cho thân chủ và sự đột biến này nhằm giúp cơ thể chủ đề kháng lại chúng. Plasmodium, một loại động vật nguyên sinh gây bệnh sốt rét, là một tỉ dụ. Gen của hemoglobin hồng cầu liềm đã góp phần vào sự đề kháng chống Plasmodium falciparum và ngăn chận sự phát triển của ký sinh trùng trong hồng cầu. Trong thực tế, người ta đã ghi nhận rằng những người có kiểu gen (genotype) hemoglobin thường nhật (Hb AA) thì dễ mắc sốt rét falciparum; những người có kiểu gen hồng cầu liềm đồng hợp tử (HbSS) thì bị thiếu máu hồng cầu liềm rất nặng, thường dẫn đến tử vong. Nhưng những người có hồng huyết cầu liềm dị hợp (HbAS) thì có lợi thế khi sống trong vùng dịch tễ sốt rét.

Bệnh nhân đấu tranh với nhiễm ký sinh trùng đơn bào bằng những phản ứng na ná như trong nhiễm vi khuẩn. Tuy nhiên, có mộ t số đơn bào có cơ chế tồn tại độc đáo tránh được tác động của miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu của thân chủ.

Mặc dù các kháng thể IgM và IgG được sản xuất trong mọi cơ thể có nguyên sinh trong động vật thâm nhập, nhưng các kháng thể này không nhất định có khả năng bảo vệ. vì vậy mà chúng ta gặp nhiều khó khăn trong việc kiêng kị một vacxin bảo vệ chúng lại ký sinh trùng. Hơn nữa, còn có những động vật nguyên sinh có khả năng thâm nhập vào bên trong tế bào và tồn tại ở đó: ví dụ leishmania có thể xâm nhập vào và sống trong đại thực bào. Kháng thể không thể tiếp cận và tác động lên những động vật nguyên sinh sống nội bào như vậy được trừ phi kháng nguyên ký sinh bị để lại trên bề mặt tế bào.

Vai trò của miễn dịch tế bào rất khó đánh giá trong bệnh nhiễm ký sinh trùng này. Tuy nhiên, người ta cũng thấy được tế bào T mẫn cảm có ý nghĩa quan trọng đối với nhiễm leishmania. Sự hình thành quá mẫn muộn đặc hiệu có nhẽ chịu bổn phận gây ra bệnh cảnh khu trú đối với nhiễm leishmania ở da, nhưng còn trong nhiễm leishmania nội tạng thì không tìm thấy phản ứng miễn dịch tế bào nào quan trọng.

Cơ chế tồn tại của động vật nguyên sinh trong thân thể

Động vật nguyên sinh có thể lẩn tránh hoặc biến đổi sự tấn công của hệ miễn nhiễm bằng nhiều cách (Bảng 8.6).

Biến đổi kháng nguyên là thí dụ rõ nét nhất về khả năng thích ứng của ký sinh trùng, điều này gặp đối với bệnh buồn ngủ gây ra do Trypanosoma brucei được truyền bằng ruồi xê-xê (tsétsé) ở châu Phi. Sau khi nhiễm, số lượng ký sinh trùng trong máu ngả nghiêng từng đợt; chu kỳ xuất hiện rồi biến mất ký sinh trùng trong máu này là do kháng thể phá hủy Trypanosoma, rồi sau đó ký sinh trùng lại xuất hiện với cấu tạo kháng nguyên khác. Kháng thể hình thành sau mỗi đợt nổi lên của ký sinh trùng chỉ đặc hiệu cho một biến thể kháng nguyên. có nhẽ ký sinh trùng mang nhiều gen mã hóa cho nhiều loại kháng nguyên bề mặt và chúng có khả năng đóng hoặc mở các gen này khi cấp thiết để tồn tại. Kiểu biến đổi kháng nguyên này trong mỗi cá thể được xem chỉ là biến đổ i kiểu hình (phenotyp). Kiểu này cần phải phân biệt với biến đổi kiểu gen là biến đổi mà qua đó mỗi chu kỳ mới có một chủng mới xuất hiện và gây nên dịch mới như trường hợp virus cúm chả hạn.

Bảng 8.6. Các cơ chế tồn tại của ký sinh trùng

CƠ CHẾ

tỉ dụ VỀ BỆNH

ĐỘNG VẬT

NGUYÊN SINH

GIUN TRÒN

Biến đổi thân chủ

Các nhân tố di truyền

Sốt rét

Schistosomiasis

Ức chế miễn dịch cơ thể

chủ

Sốt rét,leishmaniasis

Biến đổi ký sinh trùng

Biến đổi kháng nguyên

Trypanosomiasis,sốt rét

Schistosomiasis

Vứt bỏ kháng nguyên

Leishmaniasis

Schistosomiasis

Ngụy trang kháng

nguyên

Leishmaniasis

Tiền miễn(premunition)

Toxoplasmosis

Đề kháng với sự phá hủy của đại thực bào

Trypanosomiasis

Các động vật nguyên sinh khác có thể thay đổi chóng vánh lớp áo bề mặt để tránh sự kiểm soát miễn nhiễm, quá trình này được gọi là vứt bỏ kháng nguyên. Sau khi xúc tiếp vài phút với kháng thể, ký sinh trùng Leishmania có loại thể bỏ kháng nguyên bề mặt để trở thành trơ đối với tác dụng của kháng thể và bổ thể.

Ức chế đáp ứng miễn nhiễm là một trong những cơ chế thích ứng dễ thấy nhất để duy trì sự tồn tại của ký sinh trùng. Người ta tìm thấy cơ chế này có trong tuốt luốt các loại ký sinh trùng. tỉ dụ tiêu biểu nhất là trường hợp sốt rét và nhiễm Leishmania nội tạng. Kháng nguyên hòa tan do ký sinh trùng phóng thích ra có thể ức chế đáp ứng miễn nhiễm một cách không đặc hiệu bằng cách tác động trực tiếp lên tế bào lympho hoặc bằng cách gây bảo hòa hệ lưới nội mô. Những kháng nguyên này cũng có loại thể bỏ kháng thể đặc hiệu một cách có hiệu quả và như vậy ngăn chặn được sự phá hủy ký sinh trùng của kháng thể. Có nhiều cơ chế tạo động trực tiếp lên thể sán máng non (schistosomulum) khi nó chuyển di từ da vào dòng máu để trưởng thành. Sán máng lẫn tránh nh ững cơ chế tiến công đó bằng cách: (1) “ngụy trang” kháng nguyên, (2) tiết ra các peptidase có khả năng cắt các phân tử kháng thể bám lên chúng, hoặc (3) tiết ra những nhân tố ức chế sự tăng sinh tế bào T hoặc ức chế các tín hiệu của tế bào mast cần cho sự hoặc hóa tế bào ưa acid.

Đại thực bào có thể giết và phân hủy rất nhiều loại vi sinh vật. Tuy nhiên, một số nguyên sinh động vật có khả năng sống và phát triển bên trong đại thực bào như toxoplasma, leishmania, trypanosoma cruzi. Toxoplasma tạo được những cơ chế ngăn chận sự hòa màng của túi thực bào (chứa ký sinh trùng) với tiêu thể, còn trypanosome thì lại đề kháng với cơ chế giết nội bào của các đại thực bào ở trạng thái nghỉ.

miễn nhiễm chống giun sán

Giun sán có thể gây ra một đáp ứng da kiểu quá mẫn tức tốc (qua trung gian IgE) nếu kháng nguyên ký sinh trùng được tiêm vào da của thân chủ nhạy cảm. Các dân tộc sống ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, vùng dịch tễ của bệnh ký sinh trùng, có hàm lượng IgE trong máu cao, và kháng thể IgE đặc hiệu ký sinh trùng có nhẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chủ. Một thí dụ là trường hợp sản xuất kháng thể IgE chống lại bilharzias và Schistosoma mansoni. Cơ chế xác thực của sự bảo vệ chưa được biết rõ, nhưng có nhẽ kháng thể IgE tác dụng với ký sinh trùng để hình thành phức hợp miễn dịch và gắn lên đại thực bào (qua trung gian thụ thể Fc dành cho IgE). Sau đó, đại thực bào hoạt hóa này có thể giết ký sinh trùng. Tuy nhiên, IgE đặc hiệu ký sinh trùng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng IgE của cơ thể của một số bệnh nhân. Giun sán đã tạo ra một kích thích rất mạnh để hoạt hóa tế bào B đa clôn, nhưng sau đó vì sao cơ thể lại sinh sản ưu tiên IgE hơn là IgG, IgA hoặc IgM thì vẫn chưa rõ.

Tăng tế bào ái toan trong máu cũng là một đặc điểm của nhiễm giun sán. Sự chuyển di của tế bào ái toan đến nơi có ký sinh trùng được tạo ra bởi nhiều cơ chế. Tế bào T hoạt hóa có khả năng giải phóng nhiều lymphokin vấn tế bào ái toan. Các tế bào mast khi vỡ hạt do tác động của kháng nguyên ký sinh trùng cũng giải phóng ra các nguyên tố hóa hướng động đối với tế bào ái toan. ngoại giả còn có một số chất liệu của ký sinh trùng cũng trực tiếp dự thu hút tế bào ái toan. Gần đây người ta còn phát hiện rằng tế bào ưa acid là tế bào hiệu quả đối với nhiễm giun sán. tỉ dụ, sán máng được gắn với C3 hoặc IgG thì có thể giết bởi tế bào ái toan.

Cơ chế tồn tại của giun sán trong thân

Cơ chế ngụy trang kháng nguyên đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống còn của giun sán. Sán máng trưởng thành ngụ y trang kháng nguyên bề mặt của chúng bằng cách tự mình tổng hợp ra những kháng nguyên giống kháng nguyên thân chủ như α2 macroglobulin để che đậy tính lạ của chúng. Một cách khác là chúng thu nhận những phân tử của thân thể chủ lên bề mặt của chúng như kháng nguyên hồng huyết cầu, immunoglobulin, kháng nguyên MHC và bổ thể.

Thuật ngữ “miễn dịch song song” (concomitant immunity) hay “tiền miễn nhiễm” (premunition) được dùng để bộc lộ một dạng miễn dịch thu được trong đó nhiễm trùng đã hình thành vẫn tồn tại nhưng nhiễm trùng mới thì sẽ bị ngăn chận bởi cơ chế miễn nhiễm. Nhiễm sán máng cũng là một mô hình cho thể dạng tiền miễn dịch này: sán máng trưởng thành có thể sống nhiều năm trong thân chủ mà không có hay có rất ít bằng cớ của đáp ứng miễn dịch chống lại chúng. Tuy nhiên, sán máng trưởng thành lại kích thích thân thể chủ tạo ra đáp ứng miễn nhiễm để ngăn ngừa sự tái nhiễm đối với sán không trưởng thành tức ấu trùng vào cơ thể đó.

thương tổn do đáp ứng miễn dịch chống ký sinh trùng

Có nhiều bệnh cảnh lâm sàng xuất hiện do phản ứng của thân chủ nhằm chống lại ký sinh trùng. Người ta đã ghi nhận các phản ứng quá mẫn ngay lập tức (typ I) như mày đay, phù mạch trong giai đoạn cấp của nhiễm giun tròn và trong nhiều trường hợp nhiễm giun sán khác. Vỡ nang sán trong quá trình giải phẫu cắt bỏ nang có thể phóng thích kháng nguyên với lượng lớn và gây ra sốc phản vệ.

Kháng thể đối với kháng nguyên bề mặt tế bào có thể gây ra phản ứng quá mẫn (typ II). Những kháng nguyên ký sinh trùng cho phản ứng chéo với mô cơ thể chủ, hoặc kháng nguyên thân chủ hấp phụ lên bề mặt ký sinh trùng có thể kích thích sản xuất kháng thể đối với tự kháng nguyên thân chủ. Phản ứng tự gây miễn dịch như vậy là một y ếu tố quan yếu trong bệnh lý miễn dịch của bệnh Chagas, trong đó người ta cho rằng tổn thương tim là do tự kháng thể lưu động gây ra.

Phức hợp miễn dịch lưu động tạo bởi kháng nguyên ký sinh trùng và kháng thể thân thể chủ có thể gây ra một số thương tổn mô trong bệnh sốt rét, bệnh nhiễm trypanosoma và bệnh sán máng. Trong một số trường hợp, sự lắng đọng mãn tính của phức hợp miễn dịch có thể gây ra viêm cầu thận.

miễn dịch qua trung gian tế bào đối với kháng nguyên ký sinh trùng cũng có thể gây thương tổn mô trầm trọng. thí dụ, trong nhiễm sán máng, sự xơ hóa tĩnh mạch cửa và tăng áp động mạch phổi có lẽ là do đáp ứng tế bào đối v ới trứng sán dính trong mô.

Miễn dịch chống nấm

Các cơ chế miễn nhiễm chống nấm

Nấm có thể gây nhiều bệnh. Người ta phân loại các bệnh này thành: bệnh nhiễm nấm cạn, nhiễm nấm dưới da và nhiễm nấm sâu (Bảng 8.7).

Trong nhiễm nấm cạn, da hoặc niêm mạc là vị trí tiến công chính, trong khi đó nhiễm nấm dưới da tác động vào các mô kề cận như cơ hoặc xương. Thuật ngữ nhiễm nấm toàn thân dùng để diễn tả sự thâm nhập của nấm và các mô sâu như gan, phổi hay não. Những nấm gây nhiễm toàn thân thường được chia làm hai nhóm: nấm bệnh lý và nấm cơ hội. Thuật ngữ “bệnh lý” nói lên tính chất có thể gây bệnh cho bất cứ cá thể nào mà nấm xúc tiếp, còn thuật ngữ “thời cơ” để thuộc tính chỉ gây bệnh trên thân bị suy giảm miễn nhiễm.

Bảng 8.7. Một số bệnh nhiễm nấm ở người

Loại bệnh

Nấm gây bệnh

Tên bệnh

Lâm sàng

Nấm cạn

Trichophyton rubrum

Tinea corporis

Tinea pedis

Tạo mảng tròn

Bàn chân lực sĩ

Nấm dưới da

Candida anbicans

Candidiasis

Viêm âm đạo,…

Sporotrichium Schenkii

Sporotrichosis

Loét, tạo áp-xe

Nấm toàn

thân - bệnh lý - nhịp

Histoplasmacapsulatum

Histoplasmosis

Nhiễm trùng phổi

Coccididioides immitis

Coccididioido mycosis

Viêm phổi cấp

Candida albicans

Candidadiasis

Toàn thân

Bệnh phế quản-phổi, viêm thực quản,…

Cryptococcus Neoformans

Cryptococcusis

Viêm màng não, thương tổn phổi rắn

Aspergillus fumigatus

Aspergilosis

U do aspergillus, áp xe

não, nhiễm trùng mắt

Trong tài liệu này chúng tôi dùng bệnh nhiễm Candida để làm ví dụ. Đây là loại nấm có thể gặp khắp nơi và thường gây bệnh ngoài da cho các thân thể chủ thường nhật. Candida albicans thường tìm thấy trong âm đạo và đường tiêu hóa từ miệng cho đến lỗ đít. Da và niêm mạc nguyên vẹn là hàng rào bảo vệ tốt đối với nấm. mặc dầu pH, nhiệt độ và chừng độ thay da là những nhân tố đóng góp quan trọng, các khuẩn lạc vi khuẩn thường nhật cũng đóng vai trò quan trong việc ngăn trở sự phát triển của nấm và sự xâm nhập sau đó của chúng. Như vậy, sự đề kháng của hệ tiêu hóa đối với nhiễm Candida có liên tưởng khắn khít với miễn dịch tế bào. Rối loạn sinh thái đường ruột do dùng kháng sinh hoặc do biến đổi nội tiết hoặc chấn thương là nhân tố quan yếu gây nhiễm nấm Candida cạn mạn tính.

Biến đổi đáp ứng miễn dịch của thân thể chủ là yếu tố chính dẫn đến mắc nhiễm nấm toàn thán. Phát triển nấm trong thân cơ thể chủ có thể xảy ra khi nấm tìm được đường vào qua lớp da hay niêm mạc bị thương tổn, qua các công cụ tiêm truyền (nhất là khi chuyền các dung dịch đường và acid amin ưu trương) hoặc qua xông tiểu. Trong trường hợp nhiễm Candida nặng, có thể miễn nhiễm tế bào là cơ chế quan yếu nhất trong chống nhiễm nấm toàn thân, vị người ta thấy nhiễm nấm thường lan tỏa mạnh ở bệnh nhân suy giảm miễn nhiễm tế bào chứ ít thấy trong các trường hợp suy giảm kháng thể.

thương tổn do đáp ứng miễn dịch chống nấm.

Nhiễm nấm có thể gây nhiều hậu quả. Thường chỉ đáp ứng miễn dịch đặc hiệu chống nấm cùng với thuốc chống nấm tại chân có thể tiêu diệt được bệnh nhiễm nấm cạn. Nhưng Ngược lại, nhiễm nấm thời cơ toàn thân gây tỉ lệ tử vong cao cho các thân thể chủ suy giảm miễn dịch; nhưng hậu quả này có thể phòng ngừa nhờ dùng các thuốc chống nấm toàn thân.

Nhiễm nấm còn có thể gây một hậu quả khác. Nếu nấm không bị loại trừ hoặc tái nhiễm nhiều lần thì đáp ứng miễn nhiễm đối với kháng nguyên nấm có thể gây phản ứng quá mẫn. tỉ dụ, nhiễm Aspergillus có thể xuất hiện dưới dạng lan tỏa hoặc u aspergillus dằng dai, trong đó nấm phát triển mạnh ở các xoang trống ở phổi được hình thành trước đó (ví dụ hang lao đã điều trị khỏi). Sau đó dị ứng với kháng nguyên aspergillus có thể xảy ra. Phế quản có thể bị tắc do các mảng nấm và vách phế quản có phản ứng viêm kèm tiêm nhiễm tế bào ái toan. Về mặt lâm sàng, bệnh thường xuất hiện dưới dạng từng đợt lặp đi lặp lại của những cơn thở khò khè, ho, sốt, đau ngực giống như trong hen phế quản.

Nếu một người nào đó trước đây đã có xúc tiếp với kháng nguyên nấm và đã có kháng thể kết tủa chống nấm hình thành trong máu, nay lại hít phải nấm thì có thể có sự hình thành phức hợp miễn nhiễm trong đường hô hấp. Một tỉ dụ là bệnh phổi nông dân, một bệnh quá mẫn qua trung gian phức hợp miễn nhiễm mà kháng nguyên là một loại nấm (micropolyspora faeni) có trong cỏ.

Artikel Terkait

Back To Top