Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Nấm Penicillium marneffei

Nấm Penicillium marneffei

Nấm Penicillium có nhiều loài nhưng hầu như chỉ có P.marneffei gây bệnh, bệnh gọi là penicilliosis marneffei.

Đặc điểm sinh vật học.

Chi Penicillium thuộc lớp Ascomycetes , gồm rất nhiều loài, phân bố rộng rãi trong tự nhiên, là một trong những nấm tạp nhiễm hay gặp nhất trong phòng thể nghiệm. Chỉ có P.marneffei là tác nhân gây bệnh trực tiếp (primary pathogen) ở người và động vật.

P.marneffei là một loại nấm lưỡng dạng. Có nhiều điều chưa biết về sinh thái, dịch tễ và khả năng gây bệnh của P.marneffei . Nấm P.marneffei phân lập được lần trước nhất ở chuột tre (bamboo rat - Rhizomys sinensis ) ở miền Nam Việt Nam và sau đó ở một đôi loài gặm nhấm khác, những loại này phân bố cốt ở Đông Nam Á. mặc dầu chuột tre được coi là những vật mang mầm bệnh, chưa rõ chúng có phải là vật dự trữ mầm bệnh quan yếu hay chỉ là những động vật nhậy cảm với nấm ở môi trường. P.marneffei cũng đã được phân lập từ hang chuột tre. hiện thời phần nhiều đều cho rằng đất là nơi dự trữ mầm bệnh chính, nấm lây vào người qua đường hô hấp na ná như các nấm lưỡng dạng khác.

Vai trò y học.

P.marneffei có khả năng gây bệnh ở người bình thường cũng như người suy giảm miễn nhiễm, là một trong những loài nấm gây bệnh nhịp. Trên người có khả năng miễn nhiễm thường ngày, bệnh do P.marneffei có thể khu trú hoặc lan toả, thể lan tỏa trình diễn.# rất giống lao.

Trên bệnh nhân nhiễm HIV, thường chẩn đoán được P.marneffei ở giai đoạn bệnh lan toả. Tổn thương hay gặp nhất ở da, hệ lưới nội mô, phổi và đường tiêu hoá. Có thể nhiễm nấm máu và lan tới các cơ quan như thận, xương, khớp, màng ngoài tim. thể hiện lâm sàng thường không đặc hiệu, sốt, thiếu máu, gầy sút cân. thương tổn da thường gồm sẩn, hoại tử lõm trọng tâm giống trong bệnh u hến lây (molluscum contagiosum) thường gặp ở mặt, thân mình, tứ chi, trong nhiều trường hợp có áp xe dưới da, loét kéo dài. Hạch lympho thường sưng đau, có thể loét, hoá mủ và có lỗ dò.

Hình : thương tổn da do P.marneffei .

Chẩn đoán.

Bệnh phẩm là mô nhiễm nấm, đặc biệt là da, tủy xương, máu, hạch lympho...

Xét nghiệm trực tiếp: nhuộm Giemsa phết áp da, tủy xương cho phép chẩn đoán nhanh, nhậy khi thấy những tế bào nấm men có vách trọng tâm, trong tổ chức bào hoặc tản mạn trong tổ chức. Tế bào nấm men thường hình tròn, elip, kích tấc 2 - 6 µm, có vách ngăn ở giữa.

Giải phẫu bệnh: nhuộm Grocott's methenamine thấy những tế bào tròn hoặc oval , trong hoặc ngoài tế bào, thỉnh thoảng thấy những tế bào kích thước lớn, kéo dài thành hình xúc xích. (tới 8 µm) có vách ngăn đặc hiệu.

Hình: Tế bào nấm men có vách ngăn ở giữa của P.marneffei

Nuôi cấy: đây là một loại nấm lưỡng dạng, có hai dạng khi nuôi cấy ở hai nhiệt độ khác nhau.

Nuôi cấy ở nhiệt độ phòng: nấm mọc chậm, thường sau 2 - 4 tuần nấm mới mọc. Khuẩn lạc giống khuẩn lạc của các loại Penicillium hoại sinh nhưng sinh sắc tố đỏ lan toả vào môi trường. Soi vi thể thấy những sợi nấm không màu, có vách ngăn, đính bào đài thành nhẵn, đầu có hai lớp tiểu bào đài, bào tử tròn, kích tấc 2 - 3 µm, mọc thành chuỗi.

Nuôi cấy ở 37 0 C: khuẩn lạc màu vàng nâu, có nếp nhăn, không sinh sắc tố đỏ. Soi kính hiển vi thấy những tế bào nấm men kích tấc 2-6 µm, có vách ngăn ở giữa. - Chẩn đoán miễn nhiễm: hiện thời vẫn chưa có test chẩn đoán nào được lưu hành trên thị trường. Đã có một số kết quả khả quan trong nghiên cứu một loại kháng nguyên mannoprotein thành tế bào, Mp1p , áp dụng trong chẩn đoán

Hình : P.marneffei nuôi cấy ở nhiệt độ phòng.

Điều trị.

Nấm nhậy cảm với amphotericin B, itraconazole. Tuy nhiên, điều trị khởi đầu nên dùng amphotericin B với liều 0,6 mg/kg/ngày trong hai tuần, sau đó uống itraconazole (400mg/ngày) trong 10 tuần. Do nhiều bệnh nhân tái phát sau 6 tháng, cần điều trị duy trì itraconazole (200mg/ngày). Nếu không điều trị, trên bệnh nhân AIDS tỉ lệ tử vong là 100%.

Dịch tễ học và phòng.

Bệnh do P.marneffei ngày nay đang trở thành bệnh nhịp chính trên bệnh nhân nhiễm HIV. Bệnh xuất hiện đẵn ở Đông Nam Á. Một số trường hợp khác phát hiện ở miền Nam châu Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Lào, Indonexia.

Gần đây bệnh còn được phát hiện ở một số nước châu Âu (Thụy Sĩ, Italia, Pháp, Hà Lan, Anh, Thụy Điển...), Úc và Mĩ trên những bệnh nhân suy giảm miễn dịch đã đến vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam đã phát hiện một số bệnh nhân HIV nhiễm P.marneffei , tại Bệnh viện 103 cũng đã có thông tin một số bệnh nhân HIV nhiễm P.marneffei .

Phòng bệnh cốt tử là phòng các nguyên tố nguy cơ như phòng nhiễm HIV, việc dùng thuốc phòng P.marneffei trên bệnh nhân nhiễm HIV sống hoặc đi qua vùng dịch tễ của bệnh này cần được nghiên cứu.

Artikel Terkait

Back To Top