Phương pháp châm cứu chữa bệnh
Châm là dùng kim châm vào huyệt, cứu là dùng sức nóng cứu trên huyệt để gây kích thích đạt tới sự phản ứng của thân nhằm đạt mục đích chữa bệnh.
Muốn đạt hiệu quả điều trị, cần phải nắm vững chỉ định, chống chỉ định và kỹ thuật châm, cứu.
Châm - cứu.
Châm:
Chỉ định.
Một số bệnh cơ năng và triệu chứng của một số bệnh:
Thần kinh: nhức đầu, mất ngủ, đau các dây tâm thần ngoại biên...
Tuần hoàn: tim đập nhanh, cao huyết áp, áp huyết thấp.
Tiêu hoá: cơn đau bao tử, mửa, táo bón, ỉa lỏng...
Tiết niệu: bí đái, đái dầm...
Sinh dục: rong kinh, rong huyết, thống kinh, di tinh...
Một số bệnh do viêm nhiễm: viêm màng tiếp hợp, viêm tuyến vú, chắp,lẹo...
Chống chỉ định:
Không nên giữ để chữa các bệnh thuộc diện cấp cứu bằng châm thuần tuý.
Các cơn đau bụng cần theo dõi ngoại khoa.
Người sức khoẻ yếu, thiếu máu, mắc bệnh tim mạch, trạng thái tinh thần không ổn định. thân thể không ở trạng thái bình thường: vừa cần lao nặng nhọc, mệt quá, đói quá...
Cấm châm các huyệt ở vị trí rốn, đầu vú.
Không được châm sâu các huyệt: phong phủ, á môn, liêm tuyền...
Kỹ thuật châm.
Dụng cụ:
Kim châm các loại.
Khay đựng công cụ.
Cồn tiệt trùng: cồn 70 o , cồn iod, bông, panh kẹp kim.
quờ đều phải dược sát trùng đúng qui định.
Tiến hành châm:
bác sĩ ở phong thái tiện lợi nhất. Bệnh nhân ở tư thế thoải mái chịu đựng được lâu, biểu hiện dược vùng cần châm, dù ở phong độ nằm hay ngồi cũng cần có điểm tựa.
Thầy thuốc xác định huyệt, đánh dấu huyệt, tiệt trùng; châm kim qua da nhanh, tiến kim tới huyệt, sau khi đạt "đắc khí”, tùy theo chỉ định mà áp dụng thủ thuật bổ - tả (đơn giản) cho thích hợp:
Châm bổ: lưu kim từ 20 - 30 phút, không vê kim, rút kim nhanh, bịt lỗ châm kim.
Châm tả: lưu kim từ 15 - 20 phút, khoảng 5 phút vê kim lại 1 lần, rút nhanh không bịt lỗ châm kim.
Những hiện tượng thất thường xảy ra khi châm và cách giải quyết:
Vựng châm:
Do bệnh nhân quá yếu, dạng cơ thể không thường ngày (đói, sau cần lao nặng...), thiếu máu.
Triệu chứng: tái da, toát mồ hôi, tim đập nhanh, mạch yếu...
Cách giải quyết: rút kim ngay, để bệnh nhân nằm ở phong thái thoải mái nơi thông khí, nới lỏng áo xống, đắp ấm cho bệnh nhân, giảng giải cho bệnh nhân yên tâm, trợ tim ... nếu cần thiết.
Cách đề phòng: chỉ định đúng trước châm. Khi châm cho bệnh nhân lần đầu phải giải thích cho bệnh nhân biết, chọn châm ít huyệt và kích thích nhẹ.
Chảy máu:
Do chọc kim vào mạch máu.
Cách xử trí: lấy bông khô ấn chặt nơi bị chảy máu, sau đó dùng bông cồn day nhẹ chỗ chảy máu cho máu bầm tan bớt.
Gãy kim: do kim cong, gỉ hoặc thủ thuật quá mạnh hoặc sau khi châm kim lại để bệnh nhân vận động làm các cơ co kéo...
Xử trí: dùng kẹp kẹp lôi kim ra.
ngừa: trước khi châm phải rà soát kim, không châm lút cán kim, không để bệnh nhân co cơ nhiều khi châm hoặc vận cơ nhiều sau châm.
Cứu:
Chỉ định và chống chỉ định.
Giống như châm nhưng theo các nguyên tắc hư hàn thì cứu, thực nhiệt thì châm.
Không được cứu trong các trường hợp thực nhiệt (có sốt cao...).
Không nên cứu ở các vùng có nhiều gân, da sát xương, vùng mặt ...vì có thể gây bỏng nhất là khi cứu cho những vùng bị mất cảm giác của bệnh nhân.
Kỹ thuật cứu:
công cụ: mồi ngải hoặc điếu ngải, gừng tươi thái lát mỏng khoảng 2mm, lửa.
Tiến hành: đốt cháy mồi ngải hoặc điếu ngải rồi đặt hoặc hơ lên huyệt.
chừng độ nóng: không cổ vũ bệnh nhân chịu đựng nóng tối đa.
Thời gian: làng nhàng 15 phút. Người già và con trẻ thời kì cứu ít hơn.
Tai nạn xảy ra khi cứu.
Bỏng: thường gây bỏng độ I. Điều trị: dùng thuốc mỡ bôi và dán băng tránh nhiễm trùng.
Cháy: do mồi ngải rơi khỏi người bệnh nhân vướng vào áo xống hoặc chăn đệm gây cháy.
kết hợp châm và cứu :
Có 2 cách Phối hợp châm và cứu:
Trên một bệnh nhân cùng lúc vừa có huyệt châm và huyệt cứu.
Ôn châm: ôn châm là vừa châm vừa cứu trên cùng một huyệt. Có thể dùng ba cách làm nóng kim để ôn châm:
Xuyên kim qua mồi ngải cứu gián tiếp trên huyệt. - Lồng một đoạn điếu ngải vào chuôi kim rồi đốt.
Hơ điếu ngải gần cán kim cho kim nóng lên, sức nóng theo kim truyền vào sâu.