Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Tiệt trùng- khử trùng và kháng sinh

vô trùng- khử trùng và kháng sinh

sát trùng VÀ tiệt trùng

vô trùng

vô trùng là sự lọai bỏ vớ vi sinh vật sống (gồm thể dinh dưỡng và nha bào của chúng) bằng nhiệt độ, bằng tia bức xạ, bằng các hóa chất hoặc bằng các biện pháp cơ học. diệt trùng là công việc cấp thiết trong y học nhằm giết chết các vi sinh vật sinh bệnh khỏi công cụ y tế, sinh vật phẩm, dược phẩm... Trong phòng thí điểm vi sinh vật, Tiệt trùng là biện pháp chẳng thể thiếu được cho việc phân lập, nuôi cấy và lưu giữ các vi khuẩn trong sáng. Người ta dùng nhiều phương pháp khử trùng khác nhau trong phòng thử nghiệm vi sinh học.

Các phương pháp diệt trùng bằng dùng nhiệt như đốt nóng trên ngọn lửa ,dùng lò sấy khô 160-170 0 C, dùng nhiệt ẩm trong nồi áp suất, hoặc chưng cách thủy ngắt quảng kiểu Tyndal .

khử trùng bằng các tia bức xạ: các tia bức xạ cực tím , tia gamma, tia beta có tác dụng giết chết vi sinh vật, được dùng để diệt trùng công cụ, chế phẩm sinh học...

diệt trùng bằng cơ học dùng các máy lọc, vi khuẩn sẽ bị giữ lại phía trên máy lọc. Phương pháp này dùng để sát trùng các môi trường nuôi cấy vi khuẩn.

diệt trùng (hay khử khuẩn)

Thuật ngữ này dùng cho các tác nhân vật lý, và thường là hóa học có khả năng giết chết vi sinh vật sống trên các đồ dùng, phương tiện thí nghiệm, phòng thử nghiệm, phòng bệnh ...

Tác nhân vật lý như tia cực tím được dùng để khử trùng phòng mổ, phòng nuôi cấy vi khuẩn .

Nhiều hóa chất đặc biệt được dùng cho mục đích diệt trùng phòng làm việc, phòng thí nghiệm, tiệt trùng các đồ dùng, dụng cụ thí điểm như xà phòng, phenol , các hợp chất halogen, các muối kim loại, cồn...

Thuật ngữ sát khuẩn (antiseptic) được sử dụng cho các hóa chất dùng để giết chết vi sinh vật trên bề mặt của cơ thể con người hoặc động vật mà không làm thương tổn tổ chức của cơ thể. Các hóa chất này ít độc với thân thể và thường ở nồng độ thấp. Như vậy một hóa chất có thể sử dụng làm dung dịch khử khuẩn hoặc dùng để sát khuẩn phụ thuộc vào mục đích sử dụng và nồng độ chất sử dụng tỉ dụ phenol khi ở nồng độ 2-5% được dùng như chất tiệt trùng, còn khi ở nồng độ thấp hơn 100 đến 1000 lần được dùng làm chất sát khuẩn .

CÁC CHẤT KHÁNG SINH

Định nghĩa

Thuật ngữ kháng sinh theo định nghĩa ban đầu là những tác nhân kháng khuẩn có cội nguồn từ vi sinh vật, chúng có tác dụng chống vi khuẩn hữu hiệu ở nồng độ rất thấp. Lúc đầu các kháng sinh đều chiết từ môi trường nuôi cấy nấm mốc hoặc vi khuẩn, sau đó nhiều kháng sinh được bán tổng hợp bằng cách biến đổi cấu trúc phân tử của kháng sinh để thu được kháng sinh mới.

hiện nay kháng sinh được xem như là những hợp chất hóa học có tác dụng cản khuẩn hoặc diệt khuẩn với cơ chế tạo động ở mức phân tử, hữu hiệu ở liều lượng thấp và có thể dùng để điều trị bệnh nhiễm trùng.

Các kháng sinh có tác dụng đặc hiệu đối với một loại vi khuẩn hoặc một nhóm vi khuẩn nhất mực. Các kháng sinh có hoạt tính khác nhau, có loại có phổ kháng khuẩn rộng, có loại có phổ kháng khuẩn hẹp.

Cơ chế tạo dụng của kháng sinh

Ức chế tổng hợp vách tế bào

Khác với tế bào động vật, vi khuẩn có vách tế bào. Loại bỏ vách hoặc ngăn trở sự tạo thành vách đều làm tan tế bào vi khuẩn. Vách tế bào vi khuẩn chứa mucopeptit còn gọi là murein hay peptidoglycan. Các penicilline và cephalosporin tác động lên các phân tử protein lựa chọn đặc hiệu nên ức chế sự liên kết ngang chung cuộc của cấu trúc mucopeptit của vách tế bào, vi khuẩn dể dàng bị tan.

Các kháng sinh khác như bacitracin, vancomycin, novobiocin, D-cycloserin cũng ức chế sự tạo vách của vi khuẩn bằng ức chế sự hình thành mucopeptit của vách .

Ức chế chức năng của màng nguyên tương

Màng nguyên tương hoạt động như một màng bán thấm. Màng này thẩm thấu các chất chọn lọc và nhờ vậy kiểm soát được các thành phần bên trong của các tế bào. Nếu sự kiêm toàn của màng nguyên tương bị phá vỡ thì các thành phần nội bào thoát ra khỏi tế bào và tế bào chết. Màng tế bào của một số vi khuẩn và nấm dễ bị phá vỡ bởi một số thuốc kháng sinh hơn tế bào động vật do hoạt tính tác dụng chọn lọc của các kháng sinh này lên các nhóm cấu trúc hóa học đặc biệt có ở màng của vi khuẩn hoặc của nấm mà không có ở tế bào động vật. Polymycin có tác động ở màng nguyên tương của vi khuẩn gram âm, polyen có tác động ở màng nguyên tương của nấm.

Ức chế tổng hợp protein

Nhiều thuốc kháng sinh ức chế tổng hợp protein của vi khuẩn:

Chloramphenicol: chloramphenicol và các dẫn chất thuộc nhóm này ngăn cản sự phối hợp axit amin vào chuỗi peptit mới sinh ở đơn vị 50S của ribosome vi khuẩn qua việc cản ngăn tác động của enzyme peptidyl-transferaza.

Các tetracyclin : tetracyclin và các thuốc kháng sinh nhóm này ức chế sự tổng hợp protein của vi khuẩn bằng cách ngăn trở sự gắn liền của amino acyl-RNA chuyên chở vào đơn vị 30S của ribosome .

Các macrolid và lincomycin : Các kháng sinh nhóm này cản trở sự tổng hợp protein bằng cạnh tranh vị trí kết hợp của axit amin ở ribosome và bằng cách phong bế phản ứng dây chuyển aminoacyl.

Các aminoglycoside : các thuốc kháng sinh nhóm aminoglycoside ức chế tổng hợp protein bằng cách gắn vào protein kết nạp trên đơn vị 30S của ribosome làm đọc sai thông báo của ARN thông báo làm hình thành các protein không có họat tính, ngoài ra còn làm tách các ribosome ở thể polymer thành monomer

Tác dụng ức chế sự hình thành acid nucleic

Các sulfonamid và trimethoprim : Đối với nhiều vi sinh vật, axit para-aminobenzoic (viết tắt là PABA) là một chất chuyển hóa cấp thiết trong quá trình tổng hợp axit folic cần thiết để tổng hợp purin và ADN. Sulfonamid do có cấu trúc rưa rứa như PABA nên có thể đi vào phản ứng thay cho PABA, hậu quả là một chất rưa rứa như axit folic nhưng không có họat tính được tạo thành và cản trở sự phát triển của vi khuẩn.

Trimethoprim ức chế enzyme dihydro folic reductase, enzyme này biến đổi axit dihydro folic thành axit tetrahydro folic, một giai đọan trong chuổi phản ứng tổng hợp purin và DNA.

Sự kết hợp một trong các sulfonamid với trimethoprim, hai chất tác động ở hai khâu khác nhau của một quá trình tổng hợp làm tăng rõ họat tính của thuốc, cotrimoxazol (sulfamethoxazol và trimethoprim) là chế phẩm phối hợp dùng hiệu quả trong điều trị các bệnh nhiễm trùng

Rifampin: Rifampin và các dẫn chất phối hợp với ARN polymerase phụ thuộc ADN và như thế ức chế sự tổng hợp ARN ở vi khuẩn.

Các quinolone : Các quinolon và cacboxy fluoroquinolon phối hợp vào ADN gyrase nên ức chế tổng hợp ADN.

Các nhóm thuốc kháng sinh

Sulfonamid

Là những hợp chất thay thế nhóm amit (SO 2 NH 2 ) hoặc nhóm amin (NH 2 ) của axit sulfanilamic.

Sulfonamid có tác dụng cản khuẩn đối với vi khuẩn gram âm và vi khuẩn gram dương. Chúng ức chế nhiều vi khuẩn gram dương và vi khuẩn đường ruột bao gồm E.coli , Klebsiella Proteus .

Các sulfonamid đưọc sử dụng rộng rãi như sulfaguanidin, sulfadiazim, sulfisoxazol, sulfamethoxazol, sulfadimethoxin....

chướng ngại chính của các thuốc nhóm sulfamid là vi khuẩn trở thành đề kháng với thuốc mau chóng, thêm vào đó nhiều sulfamid có thể gây phản ứng phụ nghiêm trọng. Nên hiện nay các thuốc nhóm sulfamid chỉ được dùng hạn chế.

Chế phẩm sulfamid đang được dùng rộng rãi bây chừ là cotrimoxazol là phối hợp của sulfamethoxazol và trimethoprim. Thuốc này được dùng trong điều trị các nhiễm trùng đường tiêu hóa, hô hấp và tiết niệu. Dạng phối hợp khác là fansidar bao gồm sulfadoxin và pyrimethamin có hiệu quả trong điều trị sốt rét, ít hiệu quả đối với bệnh nhiễm trùng .

Các beta- lactamin

Các thuốc này trong công thức hóa học có chứa vòng beta-lactam bao gồm các penicillin và các cephalosporin.

Các penicillin

Các penicillin nhân ái chung là axit 6 amino-penicillanic hợp bởi một vòng thiazolidin và một vòng b-lactam các penicillin này khác với penicillin khác ở chổ gốc R gắn vào nhân chung.

Các penicillin dùng trong điều trị thuộc 3 nhóm chính :

Các penicillin có hoạt tính cao đối với vi khuẩn gram dương, bị phá hủy bởi enzyme penicillinase: penicillin G, penicillin V (phenoxy methylpenicillin), benzathin penicillin.

Các penicillin có hoạt tính đối với vi khuẩn gram dương, đề kháng đối với enzyme penicillinase: methicillin, nafcillin, oxacillin, dicloxacillin .

Các penicillin có hoạt tính rộng đối với cả vi khuẩn gram duơng và vi khuẩn gram âm, bị phá hủy bởi enzyme penicillinase. Các penicillin nhóm này bao gồm:

Các aminopenicillin: ampicillin, amoxicillin, becampicillin, metampicillin.

Các carboxy penicillin: carbenicillin, ticarcillin.

Các ureidopenicillin: azlocillin, mezlocillin, piperacillin.

Ngoài 3 nhóm chính trên bây chừ người ta còn có các penicillin kết hợp trong đó người ta kết hợp các penicillin khác nhau với những chất ức chế enzyme b lactamase dùng để điều trị các nhiễm trùng do vi khuẩn đề kháng sinh sản enzyme b lactamase. Hai chất ức chế enzyme này được dùng để phối hợp với các penicillin là axit clavulanic và sulbactam: các thuốc của sự kết hợp này như: timentin gồm ticarcillin và axit lavulanic, augmentin (amoxicillin và a.clavulanic), unasyn (ampicillin & sulbactam).

Các cephalosporin

Các cephalosporin có một nhân chung là axit faminocephalo-sporanic hình thành bởi một vòng b lactam phối hợp với một vòng dihydrotiazin thay thế hydro cuả nhóm amin bằng các gốc R khác nhau thì thu được các cephalosporin bán tổng hợp .

Các cephaloporin có hoạt tính với cả vi khuẩn gram dương và với cả vi khuẩn gram âm .

Dựa vào tính kháng khuẩn các cephalosporin được chia các thế hệ:

Các cephalosporin đời thứ nhất:

Bao gồm cephalothin, cephazolin, cephalein, cefaclor. Các thuốc này có hoạt tính đối với tụ cầu liên cầu A, phế cầu, E. coli , Klebsiella , Proteus ..

Cephalosporin thế hệ thứ hai:

Các thuốc nhóm này có hoạt tính tốt hơn các thuốc cephalosporin thế hệ thứ nhất chống lại E. coli, Klebsiella, Proteus, Citrobacter , Enterobacter , H.influenzae , N.gonorrhoe , N. meningitidis. Các thuốc nhóm này gồm: cefamandol, cefuroxime, cefonicid, cefoxitin...

Cephalosporin thế hệ thứ ba:

Có phổ tác dụng kháng khuẩn bao trùm hết thảy vi khuẩn đường tiêu hóa, tuy nhiên có tác dụng kém với vi khuẩn gram dương, thuốc nhóm này có thể chia 02 nhóm, nhóm có tác dụng chống Pseudononas aeruginosa gồm ceftazidime và cefoperazone, và các nhóm không có tác dụng chống P. aeruginosa bao gồm cefotaxim, ceftazidime, ceftizoxime, moxalactam. Nhiều thuốc nhóm này thấm vào màng não tốt nên được dùng để điều trị viêm màng não do vi khuẩn gram âm.

Monobactam và Carbapenem :

Hai nhóm thuốc này khác với các beta-lactam về cấu tạo hóa học nhưng cơ chế tác dụng là ức chế tổng hợp vách rưa rứa như cách tác dụng của các beta lactam, aztreonam là thuốc thuộc nhóm monobactam có sẵn hiện giờ, phổ kháng khuẩn giới hạn trên vi khuẩn gram âm hao hao như các aminoglycoside.

Imipenem là kháng sinh carbapenem có sẵn bây chừ, phổ kháng khuẩn của thuốc này được xem là rộng nhất trong các thuốc kháng sinh hiện thời bao trùm lên các vi khuẩn gram dương gồm cả liên cầu D, có tác dụng chống lại hầu hết các vi khuẩn gram âm kể cả P.aeruginosa , và có tác dụng chống lại vi khuẩn kỵ khí.

Các kháng sinh aminoglycoside

Gồm streptomycin, neomycin, gentamycin, tobramycin, amikacin, kanamycin

Các kháng sinh nhóm này có tác dụng diệt khuẩn bao gồm cả vi khuẩn gram dương và nhiều vi khuẩn gram âm. gentamycin, tobramycin, neomycin có tác dụng chống P.aeruginosa , trái lại streptomycin có tác dụng với vi khuẩn lao nên là thuốc dành riêng để điều trị lao.

Các thuốc tetracyclin

Có công thức hóa học hao hao nhau. Các thuốc khác nhau chỉ ở các gốc R khác nhau .

Các thuốc này bao gồm tetracyclin, chlotetracyclin, oxytetracyclin, doxycyclin, minocyclin, thuốc nhóm này có tác dụng cản khuẩn với vi khuẩn gram dương và gram âm, các tetracyclin có hiệu quả với Rickettsia, Chlamydia , Mycoplasma pneumoniae Leptospira .

Chloramphenicol

Lúc đầu chiết xuất từ Streptomyces venezuelae nhưng hiện nay được tổng hợp. Thuốc này có tác dụng cản khuẩn và phổ kháng khuẩn rộng. Nó có hiệu quả trong bệnh thương hàn và các nhiễm trùng do Rickettsia .

Macrolit và các thuốc tương tự

Các thuốc kháng sinh macrolit gồm erythromycin, oleandomycin, spiramycin. Các kháng sinh thuộc nhóm này có tác dụng cản khuẩn, chúng tác dụng tốt trên vi khuẩn gram dương, một số vi khuẩn gram âm như phẩy khuẩn tả. Erythromycin là thuốc an toàn nên đựơc dùng làm thuốc thay thế penicillin trong các nhiễm trùng do vi khuẩn gram dương ở bệnh nhân dị ứng với penicillin. Lincomycin và clindamycin có cơ chế tác dụng và họat phổ rưa rứa như erythromycin.

Polypeptid

Kháng sinh nhóm polypeptit cốt tử là polymycin, phổ tác dụng đốn diệt khuẩn với vi khuẩn gram âm kể cả Pseudomonas . Polymycin độc với tâm thần và thận, hiện thời ít được dùng đường toàn thân để điều trị các nhiễm trùng gram âm. Cac thuốc có polymycin thường được dùng để điều trị nhiễm trùng tại chỗ.

Rifamycin

Là kháng sinh chiết suất từ Streptomyces mediterranei , chất dẫn xuất bán tổng hợp là rifampin, hai thuốc này có họat phổ đối với một số vi khuẩn gram âm và gram dương, vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn kháng acid cồn. Rifamycin bởi vậy là thuốc dùng chủ yếu để điều trị bệnh lao bây chừ.

Các quinolon và cacboxy - fluoroquinolon

Hợp chất quinolon tổng hợp trước hết là axit nalidixic cốt dùng để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu. Các cacboxy-fluoroquinolon là các dẫn chất từ axit nalidixic, các thuốc này có tác dụng diệt khuẩn đối nhiều vi khuẩn gram dương và vi khuẩn gram âm kể cả tụ cầu đề kháng với methicillin và P.aeruginosa , chúng còn còn có tác dụng chống Mycoplasma Chlamydia . Các fluoroquinolon được sử dụng trong nhiều nhiễm trùng các cơ quan. Một số fluoroquinolon thường dùng giờ gồm ciprofloxacin, enoxacin, norfloxacin, pefloxacin.

Sự đề kháng của vi khuẩn với thuốc kháng sinh

Cơ chế kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn

Nhiều cơ chế kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn đã được khảo sát. Ở những chủng vi khuẩn khác nhau, sự đề kháng với một lọai kháng sinh có thể do một họăc nhiều cơ chế khác nhau.

Tăng sự phá hủy thuốc do enzyme

Đây là cơ chế đề kháng bình thường qua trung gian của plasmid. thí dụ tiêu biểu là enzyme beta lactamase gây nên sự đề kháng với các kháng sinh beta lactamin. Các vi khuẩn sản xuất enzyme penicillinase thì đề kháng với các penicillin, các vi khuẩn tạo được enzyme cephalosporinase thì đề kháng với các cephalosporin, các aminoglycoside bị bất họat bởi các enzyme phosphorylase, adenylase, acetylase. Chloramphenizol bị bất họat bởi acetylase.

Sự biến đổi receptor của thuốc

Đây là cơ chế quan trọng. Sự biên đổi protein đặc hiệu với thuốc ở ribosome làm vi khuẩn trở nên đề kháng đối với thuốc kháng sinh như sự đề kháng với các thuốc nhóm aminoglycoside, erythromycin, đề kháng với rifampin trên cơ sở thay đổi một amino axit trên tiểu đơn vị beta của enzyme ARN polymerarase phụ thuộc ADN làm đổi thay sự gắn vào enzyme này của rifampin. Sự đề kháng của sulfonamid và trimethoprim cũng hao hao do sự biến đổi của phân tử enzyme nên sulfamid không được nhận vào phản ứng để tổng hợp acid folic.

Giảm tính thấm ở màng nguyên tương

Tính chất này do sự mất hoặc thay đổi hệ thống chuyển vận ở màng nguyên tương. Sự đề kháng này gặp ở các kháng sinh như các beta lactamin, chloramphenicol, quinolon, tetracyclin và trimethoprim. ngoại giả rào cản thẩm thấu bình thường của màng nguyên tương cũng chịu nghĩa vụ cho sự đề kháng tự nhiên của nhiều thuốc.

Tăng sự tạo thành một enzyme

Cơ chế này có thể liên can đến sự sinh sản gia tăng số lượng enzyme ức chế như đã được thấy ở một số vi khuẩn mang plasmid kháng thuốc hoặc liên can đến sự tạo thành một enzyme mới có ái lực mạnh hơn với một cơ chất khác so với thuốc như trong trường hợp đề kháng với sulfonamid.

nguồn gốc của tính kháng thuốc

Kháng thuốc kháng sinh ở vi khuẩn đẵn do sự hình thành những gen kháng thuốc ở thể nhiễm sắc hoặc ở plasmid tuy nhiên ở một vài dạng sinh lý đặc biệt vi khuân trở nên đề kháng với thuốc kháng sinh. Các vi khuẩn ỏ thể ngủ tức là không nhân lên có thể không chịu tác động của thuốc như vi khuẩn lao. hình thức mất vách của một số tế bào vi khuẩn (dạng L) sẽ không bị ảnh hưởng bởi các thuốc ức chế tác thành vách như penicillin sau thời kì dùng thuốc các vi khuẩn này có thể lấy lại cấu trúc vẹn nguyên.

Kháng thuốc do đột biến thể nhiễm sắc

Một quần thể vi khuẩn có thể chứa những biến chủng ít nhạy cảm hơn với một thứ thuốc. Sự hiện diện của thuốc kháng sinh như thế chỉ chọn lọc cho phép các chủng ít mẫn cảm hơn sống sót. Như vậy vai trò của thuốc chỉ như một nguyên tố tuyển lựa chứ không có vai trò gây nên sự đột biến kháng thuốc. Một khi có sự hiện diện của biến chủng vi khuẩn kháng thuốc thì biến chủng này có thể truyền tính kháng thuốc này đến những vi khuẩn khác bằng nhiều cơ chế khác nhau: Chuyển thể, chuyển nạp, giao cấu.

Kháng thuốc qua plasmid

Plasmid là một phân tử ADN tự sao chép nhỏ hiện diện trong nguyên tương nhiều vi khuẩn. Phân tử ADN nhỏ này thường mang các gen kháng thuốc (resistance) nên gọi là R plasmid. Các plasmid của vi khuẩn thường còn mang trên nó các gen cho phép chúng gắn vào bề mặt niêm mạc, tạo ra độc tố, và xâm nhập, các plasmid kháng thuốc này có thể truyền cho nhau giữa các vi khuẩn làm lan nhanh sự đề kháng.

Các cơ chế làm lan truyền tính kháng thuốc

Như đã nêu ở trên một khi xuất hiện biến chủng mang gen đề kháng thuốc ở thể nhiễm sắc hoặc ở plasmid, các biến chủng này có thể lan truyền nhanh tính đê kháng cho vi khuẩn khác bằng 3 cơ chế đàm luận vật liệu di truyền sau :

Biến nạp.

Tải nạp do bacteriophage.

Tiếp hợp.

Các phương tiện làm lây lan nhanh tính kháng thuốc:

Plasmid: thêm vào các gen kháng thuốc, trên các plasmid còn mang các gen xúc tiến sự đàm đạo gen giữa các vi khuẩn.

Do transposon: đây là những gen có khả năng chuyển di. Các transposon có mang những gen kháng kháng sinh có thể nhảy từ plasmid này đến một plasmid khác hoặc từ plasmid qua thể nhiễm sắc. Một số transposon kháng thuốc tìm thấy ở vi khuẩn Gram âm còn mang gen xúc tiến sự lây nhiễm.

Do các integron đây là vector có thể mang gen kháng kháng sinh, integron có thể chèn vào các vị trí cố định trên nhiễm sắc thể

Xác định độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh

bây chừ nhiều vi khuẩn đề kháng với kháng sinh đã gây nên nhiều vụ dịch nhiêm trùng nặng, điều này dẫn đến nhu cầu cần có những chương trình theo dõi tính kháng thuốc của vi khuẩn trên khuôn khổ nhà nước và quốc tế. Khảo sát về dịch tễ học tính kháng thuốc của vi khuẩn giúp cho các thầy thuốc lâm sàng chọn thuốc kháng sinh phù hợp để điêu trị bệnh nhiễm trùng. Xác định độ mẫn cảm của vi khuẩn với thuốc kháng sinh bằng những phương pháp phòng thử nghiệm tin cậy và hợp nhất để có các dữ kiện có thể so sánh được. thể nghiệm độ mẫn cảm của vi khuẩn trong phòng thử nghiệm, còn gọi là kháng sinh đồ, có thể được thực hiện bằng phương pháp hòa loãng hoặc bằng phương pháp khuếch tán trên môi trường đặc. Khi thực hành kháng sinh đồ vi khuẩn cần phải được nuôi cấy thuần khiết, phần lớn vi khuẩn gây bệnh ở người khi phân lập cần 16-18 giờ mới phát triển, nếu bệnh phẩm chỉ thuần một lọai vi khuẩn thì cần thêm 16-18 giờ nữa để làm kháng sinh đồ, như vậy kết quả kháng sinh đồ sớm nhất cũng mất 36 - 48 giờ, trong trường hợp bệnh phẩm nhiều vi khuẩn, hoặc nhiều vi khuẩn phát triển chậm cần thời gian lâu hơn. Đối với một số vi khuẩn mà tính kháng sinh ổn định và rõ ràng thì không cấp thiết phải làm kháng sinh đồ như vi khuẩn bạch hầu, liên cầu A tan máu b. Tính chất đề kháng kháng sinh của vi khuẩn có thuộc tính dịch tễ, bởi vậy kết quả kháng sinh đồ của các vi khuẩn gây bệnh có thể khác nhau giữa bệnh viện này và bệnh viện khác và những vùng khác nhau, ngay cả trong cùng một bệnh viện độ mẫn cảm của vi khuẩn cũng thay đổi hàng ngày. vì thế các phòng thí điểm vi khuẩn ở bệnh viện cần làm kháng sinh đồ để chọn kháng sinh hiệp trong điều trị bệnh nhiễm trùng .

kết hợp kháng sinh

phối hợp kháng sinh để điều trị bệnh nhiễm trùng nhằm một số đích sau :

Giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn đề kháng. Đối với vi khuẩn đề kháng do đột biến thì phải kết hợp kháng sinh làm giảm tần suất đột biến kép, tỉ dụ đột biến của vi khuẩn lao kháng streptomycin là 10 -7 , đột biến kháng rifamycin là 10 -9 thì xác xuất đột biến kháng được với cả hai thứ thuốc trên là 10 -7 x10 -9 = 10 -16 . Đây chính là lý do phải kết hợp kháng sinh để điều trị lao.

Điều trị các nhiễm khuẩn hỗn hợp : Một lọai kháng sinh có phổ tác động trên một nhóm vi khuẩn nhất định. Trong các nhiễm khuẩn do nhiều lọai vi khuẩn thủ phạm như viêm phổi, viêm phúc mạc... thường do cả vi khuẩn ái khí và vi khuẩn kỵ khí. kết hợp kháng sinh thì sẽ diệt dược cả hai lọai vi khuẩn này.

Để tăng khả năng diệt khuẩn : tỉ dụ kết hợp sulfamethoxazol và trimethoprim làm tăng khả năng diệt khuẩn đối với nhiều vi khuẩn so với khi dùng trơ một trong hai thuốc trên. Mục đích này được dùng trong trường hợp điều trị các nhiễm trùng do Pseudomonas aeruginosa thường người ta kết hợp carbenicllin và gentamicin...

Back To Top