hướng dẫn COVID-19 PICU: dành cho bối cảnh nguồn lực cao và hạn chế
Saraswati Kache
Bản dịch của BS. Đặng Thanh Tuấn – BV Nhi Đồng 1
Tóm tắt
Bối cảnh
trẻ em ít bị ảnh hưởng hơn người lớn bởi đại dịch COVID-19, và các biểu thị lâm sàng khác với người lớn. Một số con nít, đặc biệt là những trẻ có bệnh đồng mắc cấp tính hoặc kinh niên có khả năng mắc bệnh hiểm nghèo. Gần đây, một hội chứng viêm đa cơ quan thống (MIS-C) đã được trình diễn.# ở con trẻ với một số bệnh nhân này cần được coi sóc tại ICU nhi khoa (PICU).
Phương pháp
Một nhóm hợp tác quốc tế đã được thành lập để coi xét các bằng chứng hiện có và phát triển các chỉ dẫn dựa trên bằng chứng để coi ngó con nít bị bệnh nặng do nhiễm SARS-CoV-2. Khi thiếu chứng cớ, những khoảng trống đó được thay thế bằng các hướng dẫn dựa trên sự đồng thuận.
Kết quả
Quy trình này đã đưa ra 44 Khuyến cáo hệ trọng đến bệnh nhi COVID-19 có biểu đạt suy hô hấp, nhiễm trùng huyết hoặc sốc nhiễm trùng, ngưng tim ngưng thở, MIS-C, những bệnh nhân cần điều trị bổ trợ, hoặc ECMO. chứng cớ để giải thích các dạng bệnh nhẹ hơn ở trẻ thơ và khả năng sử dụng các loại thuốc chống vi-rút, các liệu pháp chống viêm hoặc chống huyết khối thay thế cũng được diễn đạt.
Kết luận
tóm lược ngắn gọn về nhiễm SARS-CoV-2 ở trẻ mỏ ở các khu vực khác nhau trên thế giới được bao gồm vì một số cơ quan đăng ký nắm dữ liệu này trên toàn cầu. Các hướng dẫn này tìm cách hài hòa các tiêu chuẩn và chiến lược trông nom đặc biệt mà trẻ em bị bệnh nặng do COVID-19 nhận được trên toàn thế giới.
Tác động
Tại thời khắc xuất bản, đây là bằng cớ mới nhất để xử trí con trẻ bị bệnh nặng bị nhiễm SARS-CoV-2.
Việc tham khảo các chỉ dẫn này có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và khả năng tử vong của con trẻ do COVID-19 và các di chứng của nó.
Các chỉ dẫn này có thể được điều chỉnh cho hạp với cả các bối cảnh nguồn lực cao và hạn chế.
Giới thiệu
Vào đầu tháng 12 năm 2019, một loại coronavirus mới gây ra bệnh viêm phổi lần trước hết được ít ở Vũ Hán, Trung Quốc và chóng vánh lây lan toàn cầu. Do khả năng gây bệnh, khả năng lây cao, tỷ lệ người mang mầm bệnh không có triệu chứng và sự thiếu miễn nhiễm trên toàn cầu của con người đối với loại vi rút này, Tổ chức Y tế Thế giới đã tuyên bố một đại dịch vào ngày 11 tháng 3 năm 2020. mặc dầu bản chất hung tợn của Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng Coronavirus 2 (SARS-CoV-2), trẻ nít ít bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.
Tại thời điểm ban bố, 8,4 triệu trường hợp nhiễm trùng đã được công nhận và tổng số 450,835 trường hợp tử vong đã được thưa. 1 Dịch tễ học về tỷ lệ nhiễm trùng theo tuổi và tỷ lệ tử vong rất khó xác định trên toàn cầu, nhưng các trường hợp con nít tương đối ít. Hai nghiên cứu lớn, từ Trung Quốc và Hoa Kỳ, có dữ liệu nhi khoa tốt nhất cho đến nay. Cuộc tổng kết nhi khoa lớn nhất cho biết 2143 trẻ mỏ đến từ Trung Quốc (34,1% phòng thử nghiệm xác nhận và 65,9% trường hợp nghi tính đến ngày 7 tháng 2 năm 2020), 5,6% trẻ mắc bệnh hô hấp nặng, 0,6% mắc hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) và 1 trẻ tử vong. 2 trái lại, 18,5% người lớn đã phát bệnh nặng hoặc nguy khốn. 2 Tại Hoa Kỳ, bệnh nhi chỉ chiếm 1,7% tổng số ca bệnh từ ngày 12 tháng 2 đến ngày 2 tháng 4; chỉ 20% trong số này phải nhập viện, 2% phải nhập viện chăm chút đặc biệt (ICU) và ba người tử vong. 3 Cả hai nghiên cứu đều ghi nhận rằng bệnh nhân dưới 1 tuổi có nguy cơ nhập viện cao nhất và nam giới chiếm 57% trường hợp. 2,3 Đối với những bệnh nhân có dữ liệu được ghi lại, gần một phần tư số bệnh nhân có tình trạng bệnh lý tiềm tàng. 3 Các nguyên tố liên tưởng đến kết quả xấu hơn bao gồm tuổi xanh hơn, tình trạng bệnh phổi tiềm tàng và tình trạng suy giảm miễn nhiễm. 4 Tuổi nhàng nhàng của con trẻ ở Trung Quốc là 7 tuổi 2,5 và ở Hoa Kỳ là 11 tuổi, 3 cho thấy sự dị biệt giữa các khu vực về phân bố tuổi. Do đó, hầu hết trẻ mỏ không có triệu chứng hoặc có các triệu chứng nhẹ đến nhàng nhàng và tỷ lệ tử vong theo trường hợp (CFR, 0–0,2%) ở trẻ nít thấp hơn nhiều so với người lớn (CFR 2,3%).
Các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến ở bệnh nhi bao gồm sốt, ho, đau cơ, đau họng, đau bụng kinh, nhức đầu, khó thở, tiêu chảy, mửa, thở nhanh và nhịp tim nhanh. ở bệnh nhân nhi so với người lớn. 4,6,7 Bệnh nhân người lớn tiến triển thành bệnh nặng thường khó thở 8 ngày sau khi bệnh khởi phát và trong vòng 48 giờ có thể tiến triển thành ARDS và rối loạn chức năng đa hệ cơ quan. 8 Các phát hiện khác ở bệnh nhân nặng bao gồm sốc, bệnh não, rối loạn chức năng cơ tim, suy tim, rối loạn đông máu và chấn thương thận cấp tính. 2 Bệnh nhân bị COVID-19 nặng có vẻ như có tả cơn bão cytokine na ná như chứng tăng bạch huyết cầu lymphocytic. 7 Gần đây, Hội chứng viêm đa cơ quan ở trẻ mỏ (MIS-C) đã cũng đã được diễn tả và các mô tả của bệnh nhân từ viêm nhẹ đến sốc nặng với sự tham gia của nhiều cơ quan.
Sự tiến triển của đại dịch này trong những tháng tiếp theo là không rõ ràng và các bác sĩ chuyên khoa nhi trên toàn cầu sẽ cần phải biết các dấu hiệu, triệu chứng và phương pháp điều trị COVID-19. đích của sự hiệp tác quốc tế này là đưa ra các chiến lược xử trí cho các bệnh nhi bị bệnh nặng bị nhiễm COVID-19 ở cả những cơ sở có nguồn lực hạn chế và cao.
Đánh giá gánh nặng bệnh tật tối thiểu ở trẻ mỏ
tại sao con nít được bảo vệ tương đối khỏi bệnh COVID-19? Một số lý thuyết đã được đề xuất dù rằng tri thức khoa học về vấn đề này vẫn đang phát triển.
Protein tăng đột biến SARS-CoV-2 kết liên với thụ thể men chuyển II (ACE2) để truyền nhiễm tế bào. 9 ACE2 được diễn tả trong các tế bào biểu mô phế nang loại II ở phổi, tế bào cơ tim, thực quản, và tế bào biểu mô ruột, và cũng có thể đóng một vai trò trong hệ thống đông máu. 10 miêu tả kiểu cơ quan của thụ thể này có thể giảng giải các dấu hiệu và triệu chứng tả của bệnh nhân mắc COVID19. Sự tác động lẫn nhau giữa hệ thống reninangiotensin (RAS) và các protein khác nhau có thể làm tăng hoặc giảm tình trạng viêm ở tổn thương phổi. 10,11,12,13 Việc sử dụng phổ biến thuốc ức chế men chuyển (ACEi) hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) ở người lớn tăng lên thể hiện ACE2, có thể cho phép SARS-CoV-2 thâm nhập vào tế bào phế nang loại II dẫn đến bệnh phổi nặng hơn. 10,11 Ngược lại, các nghiên cứu khác cho thấy ACEi và ARB làm giảm sinh sản Angiotensin II, do đó làm giảm viêm và thương tổn phổi. 11 Sự vắng mặt tương đối của biểu lộ ACE2 ở con nít hiện được coi là một lý thuyết vì sao trẻ con được bảo vệ khỏi bệnh COVID-19 nghiêm trọng. 14 Các mô hình động tang chứng minh rằng mức độ của thụ thể ACE2 đổi thay theo sự phát triển và theo giới tính. 15,16 trẻ thơ từ 4 đến 18 tuổi ở độ tuổi cũng có hoạt động ACE cao hơn người lớn, 17 có thể có tác dụng bảo vệ.
Sự khác biệt dựa trên tuổi tác về khả năng miễn nhiễm và phản ứng viêm trong thời gian sống cũng có thể giảng giải những kết quả này. Cụ thể, giảm bạch cầu chỉ xảy ra ở 3% bệnh nhi 18 nhưng 80% người lớn bị bệnh nặng. 8 Các suy luận hao hao về các dấu hiệu viêm như protein phản ứng C hoặc procalcitonin khó rút ra hơn vào thời khắc này. Giảm bạch cầu có thể góp phần làm mất khả năng loại bỏ nhiễm trùng SARS-CoV-2.
Một giả thuyết khác là tác dụng chống oxygen hóa của melatonin để làm giảm thương tổn viêm xảy ra do nhiễm virus. 19,20 mặc dầu melatonin có thể không làm giảm sự nhân lên của virus, nhưng nó gián tiếp điều chỉnh ACE2 và có thể tác động đến khả năng xâm nhập, lây truyền và tái hiện của SARS-CoV-2. 19 rút cuộc, melatonin có thể kéo dài thời kì sống sót của bệnh nhân cho phép hệ thống miễn dịch của cá nhân chủ nghĩa tiêu diệt vi rút. na ná như săn sóc hỗ trợ ICU, melatonin cho bệnh nhân thời kì để phục hồi. Điều thích là nồng độ melatonin vào ban đêm ở con trẻ cao hơn đáng kể so với người lớn. 20 Do đó, tác dụng chống oxygen hóa trực tiếp của melatonin cùng với tác dụng của nó trên các thụ thể ACE2 có thể đóng vai trò bảo vệ ở bệnh nhi.
Hiểu được lý do tại sao trẻ mỏ được bảo vệ tương đối khỏi nhiễm SARS-CoV-2 nặng có thể giúp chúng tôi phát triển các loại thuốc nhắm đích cho bệnh nhân người lớn và trẻ thơ có triệu chứng.
Phương pháp
Các thầy thuốc chuyên khoa nhi với nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng và nền tảng học thuật đã được mời từ khắp nơi trên thế giới để phát triển các chỉ dẫn này. Các tác giả từ các cơ sở nguồn lực cao và hạn chế và tuốt tuột các khu vực trên thế giới (trừ Châu Đại Dương) đều được đại diện. vơ các tác giả đóng góp đã được chỉ định vào các phần Khuyến cáo khác nhau cùng với việc viết phần cụ thể cho khu vực toàn cầu của họ. Do dữ liệu về bệnh nhi còn ít cho đến nay, không thể dùng một tổng quan có hệ thống với phân tích tổng hợp nhiều nghiên cứu và chuỗi trường hợp để đánh giá sức mạnh của từng khuyến cáo. Do đó, các tác giả đã xác định các nghiên cứu trẻ thơ và người lớn có liên tưởng cùng với các chỉ dẫn xử trí từ các tổ chức hàng đầu khác, thí dụ: Tổ chức Y tế Thế giới, và đã trích xuất các chứng cứ và hướng dẫn tốt nhất hiện tại để tương trợ các Khuyến cáo của họ. Mỗi chỉ dẫn được tuân theo bởi một Khuyến cáo mạnh, Yếu, Thực hành tốt nhất hoặc Không đủ chứng cớ (Bảng 1) và cơ sở lý luận cho mỗi Khuyến cáo được bao gồm trong phần nội dung của bản thảo. chẳng thể xây dựng các Khuyến cáo bằng cách sử dụng khung chứng cớ để Quyết định (EtD) do có rất ít bằng chứng can hệ đến COVID-19 ở bệnh nhi và bối cảnh đổi thay mau chóng của căn bệnh này.
Khuyến cáo
tương trợ hô hấp
Dạng lâm sàng
Bệnh hô hấp nhẹ
Bệnh nhi có tả bệnh nhẹ có thể được xuất viện và theo dõi tại nhà. Gia đình nên tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ dẫn cách ly, sử dụng acetaminophen hoặc paracetamol như một tác nhân đầu tay để kiểm soát cơn sốt (xem phần “Điều trị bằng thuốc” để thảo luận thêm) và theo dõi sự tiến triển của các triệu chứng lâm sàng.
Bệnh hô hấp nghiêm trọng
WHO định nghĩa tình trạng suy hô hấp nặng ở trẻ con có trình bày thở nhanh và bất kỳ biểu đạt nào sau đây: tím tái hoặc giảm oxy máu trung ương (độ bão hòa oxy [SpO 2 ] <90%), rên="" rỉ,="" không="" thể="" bú="" mẹ="" hoặc="" uống,="" hôn="" mê,="" bất="" tỉnh="" co="" giật. 21 Cụ thể Định nghĩa thở nhanh theo lứa tuổi là nhịp thở ≥ 60/phút ở trẻ <2 tháng="" tuổi,="" ≥50="phút" ở="" trẻ="" 2–11="" ≥40="phút" 1–5="" tuổi. 21
Hội chứng nguy ngập hô hấp cấp tính (ARDS)
Các triệu chứng hô hấp lợt hơn 1 tuần sau khi bệnh phát khởi do SARS-CoV-2 với các vết mờ mới trên hình ảnh X quang ngực không giải thích được do suy tim hoặc quá tải thể tích và với sức ép riêng phần của oxy (PaO 2 ) trên nồng độ oxy hít vào (FiO 2 ) ≤ 300 mmHg, hoặc SpO 2 /FiO 2 <264 khi="" thở="" máy="" không="" xâm="" lấn,="" hoặc="" chỉ="" số="" oxygen="" hóa=""> 4, hoặc chỉ số bão hòa oxy (OSI) 5 trong khi thở máy xâm lấn là can hệ đến ARDS. Chỉ số bão hòa oxy có thể được tính dựa trên trị số đo độ bão hòa oxy mạch đập (SpO 2 ) mà không cần đo khí máu; do đó, nó có thể được sử dụng trong môi trường hạn chế về nguồn lực và có thể tạo điều kiện nhận biết sớm ARDS. Các định nghĩa cài đặt cụ thể cho trẻ mỏ và giới hạn nguồn lực cũng đã được xác định trước đây. 22,23
Khuyến cáo điều trị cho liệu pháp oxy và tương trợ cơ học không lấn chiếm
1.Ở trẻ nít bị nhiễm COVID-19 và giảm oxy máu, bắt đầu điều trị oxy bổ sung bằng ống thông mũi lưu lượng thấp khi độ bão hòa oxy (SpO 2 ) <90%. 24 Nếu bệnh nhân tiếp chuyện bị giảm oxy máu, cung cấp oxy qua mặt nạ có túi dự trữ nên được bắt đầu (Khuyến cáo mạnh).
2.trẻ em bị COVID-19 vẫn bị tăng nhịp thở và giảm oxy máu nên được chuyển sang Ống thông mũi lưu lượng cao (HFNC) nếu có. Bệnh nhân bị suy hô hấp tiến triển, hoặc khi không có HFNC, có thể được chuyển sang thở sức ép dương không lấn chiếm (NIPPV), thở sức ép dương liên tục xủi bọt (bCPAP) hoặc sức ép đường thở dương hai mức sức ép (BiPAP) (Khuyến cáo mạnh).
Cơ sở lý luận
Bệnh nhân suy hô hấp nên được điều trị khi độ bão hòa oxy <90%. 25 HFNC hoặc NIPPV là phương thức hỗ trợ hô hấp an toàn và hiệu quả ở bệnh nhi và có thể cung cấp tương trợ hô hấp đầy đủ để ngăn ngừa nhu cầu thở máy xâm nhập.
Bảng 1 Các Khuyến cáo về xử trí trẻ thơ bị nhiễm COVID-19.
Khuyến nghị |
Sức mạnh |
Thông khí |
|
1. Ở con nít bị nhiễm COVID-19 và giảm oxy máu, bắt đầu điều trị oxy bổ sung bằng ống thông mũi lưu lượng thấp khi độ bão hòa oxy (SpO 2 ) <90%. nếu="" bệnh="" nhân="" tiếp="" tục="" bị="" giảm="" oxy="" máu,="" nên="" bắt="" đầu="" cung="" cấp="" qua="" mặt="" nạ="" có="" túi="" dự="" trữ.<="p"> |
Mạnh |
2. trẻ mỏ bị COVID-19 vẫn bị tăng nhịp thở và giảm oxy máu nên được chuyển sang ống thông mũi lưu lượng cao (HFNC) nếu có. Bệnh nhân bị suy hô hấp tiến triển hoặc không có HFNC có thể được chuyển sang thở áp lực dương không lấn chiếm (NIPPV), thở áp lực dương liên tục xủi bọt (bCPAP) hoặc sức ép đường thở dương hai mức áp lực (BiPAP). |
Mạnh |
3. trẻ em bị COVID-19 thất bại NIPPV nên được chuyển sang thở máy. |
Mạnh |
4. Ở trẻ thơ bị COVID-19 cần đặt nội khí quản, thủ thuật nên được thực hiện bởi một nhân viên y tế được đào tạo và có tay nghề cao. |
Mạnh |
5. Trẻ bị COVID-19 cần đặt nội khí quản nên được đặt nội khí quản bằng ống nội khí quản có bóng chèn. |
Mạnh |
6. Đối với trẻ mắc COVID-19 cần đặt nội khí quản, nên cân nhắc dùng nội soi thanh quản video để đặt nội khí quản. |
Yếu |
7. Nên mặc thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE) để đặt nội khí quản và rút nội khí quản cho toàn bộ trẻ nít bị COVID-19. |
Mạnh |
8. Đối với trẻ nít bị COVID-19 cần thở máy, thể tích khí lưu thông nên được giới hạn ở mức 6 ml/kg. |
Yếu |
9. Đối với con trẻ bị COVID-19 cần thở máy, nên chuẩn độ áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) cho từng bệnh nhân và giai đoạn ARDS của họ. |
Yếu |
10. Đối với trẻ thơ bị COVID-19 cần thở máy, nên cân nhắc tư thế nằm sấp ở bệnh nhân ARDS và giảm oxy máu nặng. |
Yếu |
11. Đối với trẻ mỏ bị COVID-19 cần thở máy với tình trạng giảm oxy máu kháng trị, không nên dùng oxit nitric dạng hít. |
Không đủ chứng cứ |
12. Đối với con nít bị COVID-19 cần thở máy, thở máy động dao tần số cao (HFOV) không được khuyến khích áp dụng thường quy nhưng có thể được coi xét trong một số trường thống nhất định. |
Không đủ bằng chứng |
tương trợ huyết động |
|
13. Đối với con trẻ bị COVID-19 và bị sốc được đưa vào hệ thống y tế có sẵn PICU (hỗ trợ thông khí và tiếp cận với các amin vận mạch), truyền dịch nhanh (bolus), 10–20 ml/kg mỗi bolus lên đến 40–60 ml/kg, trong giờ trước hết của hồi sức. |
Yếu |
14. Đối với con nít bị COVID-19 và bị sốc được đưa vào hệ thống y tế mà không có PICU (không có hỗ trợ thở máy và tiếp cận với các amin vận mạch): |
|
a. Bệnh nhân không bị hạ áp huyết, không cần truyền dịch bolus và bắt đầu truyền dịch duy trì. |
Mạnh |
b. Bệnh nhân bị hạ áp huyết, truyền dịch bolus, 10–20 ml/kg mỗi bolus cho đến 40 ml/kg, trong giờ đầu hồi sức. |
Yếu |
Khuyến nghị |
Sức mạnh |
15. Ở trẻ con bị COVID-19 và bị sốc, nên dùng dung dịch tinh thể thay vì dung dịch keo để hồi sức dịch truyền ban sơ. Cụ thể, chúng tôi khuyên bạn nên dùng các dung dịch thăng bằng hơn là dung dịch muối 0,9%. |
Yếu |
16. Ở trẻ mỏ bị COVID-19 và sốc, nên nhắm đích sức ép động mạch nhàng nhàng (MAP) ăn nhập với lứa tuổi. Ở những nơi không thể dễ dàng lấy được MAP chính xác, áp huyết tâm thu là một chọn lựa có thể ưng được. |
Mạnh |
17. Ở trẻ thơ bị COVID-19 và sốc, xem xét sử dụng các biến số huyết động nâng cao, nếu có (đo chỉ số tim, sức cản mạch máu hệ thống, và độ bão hòa oxy tĩnh mạch trọng điểm); những điều này cùng với các biến số lâm sàng tại giường bệnh có thể hướng dẫn hồi sức. |
Yếu |
18. Ở trẻ thơ bị COVID-19 và sốc, ngoài việc đánh giá lâm sàng, các thiên hướng về nồng độ lactate trong máu có thể giúp chỉ dẫn hồi sức. |
Yếu |
19. Ở trẻ con bị COVID-19 và bị sốc, nên dùng epinephrine hoặc norepinephrine, thay vì dopamine. Dung dịch đã pha loãng có thể được bắt đầu truyền qua một ống thông tĩnh mạch ngoại vi nếu không có đường vào tĩnh mạch trung tâm. |
thực hiện tốt nhất |
20. Ở con trẻ bị COVID-19 và bị sốc cần dùng catecholamine liều cao, hãy cân nhắc bắt đầu dùng vasopressin. |
thực hiện tốt nhất |
21. Ở trẻ mỏ bị COVID-19 và bị sốc, chẳng thể đưa ra các Khuyến cáo về việc sử dụng thuốc giãn mạch tăng co bóp. Nhưng trên thực tiễn lâm sàng, có thể dùng các thuốc giãn mạch tăng co bóp như milrinone, dobutamine hoặc levosimendan khi có dấu hiệu giảm tưới máu mô và rối loạn chức năng tim, mặc dầu dùng catecholamine liều cao. |
Thực hành tốt nhất |
22. Ở trẻ em bị COVID-19 và sốc kháng trị, cân nhắc liều glucocorticoid chống viêm. |
Không đủ bằng chứng |
23. Ở một bệnh nhi bị COVID-19 và bệnh nặng, cần tiến hành đánh giá toàn diện về tim bao gồm điện tâm đồ, siêu thanh tim và các chừng độ dấu ấn sinh học tim (troponin, CK và CK MB). |
Mạnh |
24. Liệu pháp kháng viêm glucocorticoid và globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) là những phương pháp điều trị được đề xuất tiềm năng cho trẻ bị viêm cơ tim liên hệ đến COVID-19. |
Không đủ chứng cớ |
Liệu pháp bổ trợ |
|
25. Cân nhắc liệu pháp chống đông máu ở trẻ thơ với COVID-19 với: a. Nguy cơ nhẹ bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) (tức thị những người có ống thông tĩnh mạch trọng điểm hoặc ngoại vi hoặc bị bệnh nặng, nhưng không có tình trạng tăng viêm và không có nguy cơ huyết khối), hãy xem xét: Enoxaparin tiêm dưới da <2 tháng:="" 0,75="" mg="kg/liều" mỗi="" 12="" giờ;="" ≥2="" 0,5="" trong="" vòng="" giờ<="p"> đích yếu tố chống Xa: 0,3–0,5 IU/ml b. trẻ con bị COVID-19 có nguy cơ cao bị VTE (tức là bệnh nặng, tình trạng tăng viêm - protein phản ứng C 150 mg/l, D-dimer 1500 ng/ml, IL-6 100 pg/ml, ferritin 500 ng/ml, hoặc tiền sử các biến cố huyết khối tắc mạch trong kí vãng) hãy xem xét: Enoxaparin tiêm dưới da <2 tháng:="" 1,5="" mg="kg/liều" mỗi="" 12="" giờ;="" ≥2="" 1="" trong="" vòng="" giờ<="p"> đích nguyên tố chống Xa: 0,5–1 IU/ml |
Yếu |
Khuyến nghị |
Sức mạnh |
26. Ở trẻ con bị bệnh nặng với COVID-19, suy đa cơ quan liên can đến giảm tiểu cầu (TAMOF: số lượng tiểu cầu dưới 100 × 10 9 /L và suy hai hoặc nhiều cơ quan) và thiếu hụt ADAMTS-13 mắc phải có thể cho thấy bệnh lý vi huyết mạch do huyết khối. Đối với những bệnh nhân như vậy, việc trao đổi thay huyết tương điều trị có thể có lợi trong việc kiểm soát tình trạng tăng viêm và huyết khối cũng như đảo ngược rối loạn chức năng cơ quan. |
Yếu |
27. Đối với con nít bị bệnh nặng do COVID-19, chúng tôi đề nghị chỉ cung cấp điều trị huyết tương bình phục trong phạm vi nghiên cứu hoặc trên cơ sở nhân ái. |
Không đủ bằng chứng |
28. Đối với trẻ thơ bị COVID-19 nhập viện PICU, bắt đầu nuôi dưỡng đường ruột cho bệnh nhân không có chống chỉ định, nhưng không cần bắt đầu nuôi dưỡng đường tĩnh mạch trong 7 ngày đầu tiên nhập viện PICU. |
Yếu |
29. Đối với trẻ nít bị COVID-19 diễn tiến quá tải dịch hoặc rối loạn chức năng thận và không đáp ứng với liệu pháp lợi tiểu, hãy coi xét liệu pháp thay thế thận. |
Yếu |
CPR/Hồi sức |
|
30. Giới hạn số lượng nhân viên trong phòng cho bệnh nhi COVID-19 cần hồi sức tim phổi. |
thực hiện tốt nhất |
31. Đối với bệnh nhi COVID-19 bị ngưng tim, hãy tuân theo các hướng dẫn tiêu chuẩn về ngừng tim về tỷ lệ hô hấp nhân tạo và phương pháp điều trị. |
thực hiện tốt nhất |
32. Đối với bệnh nhân được đặt nội khí quản, các Khuyến cáo bao gồm: Tăng F I O 2 lên 1,0. thay đổi chế độ sang Thông khí Kiểm soát sức ép và giới hạn áp lực khi cấp thiết để tạo ra sự nâng ngực đầy đủ. Điều chỉnh kích hoạt thành OFF sẽ ngăn máy thở tự động kích hoạt khi ép ngực và có thể ngăn ngừa tăng thông khí. Điều chỉnh tần số hô hấp 10/phút cho người lớn và con nít. Điều chỉnh mức PEEP để cân bằng thể tích phổi và sự hồi lưu của tĩnh mạch. Nếu đạt được tuần hoàn tự phát trở lại, hãy đặt các cài đặt máy thở thích hợp với tình trạng lâm sàng của bệnh nhân |
Thực hành tốt nhất |
33. Bệnh nhân nằm sấp tại thời điểm ngừng tim mà không có đường thở nâng cao nên được đặt nằm ngửa. Tuy nhiên, bệnh nhân được đặt nội khí quản có thể vẫn nằm sấp và có thể bắt đầu hô hấp nhân tạo trong khi bệnh nhân nằm sấp. |
thực hiện tốt nhất |
34. Đối với những trẻ mắc COVID-19 cần nhập PICU, hãy giảng giải các mục tiêu chăm nom với bác mẹ hoặc người được ủy quyền khi các liệu pháp duy trì sự sống đang được tăng lên. |
Thực hành tốt nhất |
Cân nhắc về ECMO |
|
35. ECMO nên được xem xét ở bệnh nhi nhiễm COVID-19 để xử trí ARDS và/hoặc suy tim (viêm cơ tim, loạn nhịp tim, thuyên tắc phổi). |
Mạnh |
36. Tiêu chí lựa chọn nghiêm nhặt cho cả ECMO tĩnh mạch (VA) và tĩnh mạch (VV) nên được vận dụng để dùng ECMO cho những bệnh nhân có nhiều khả năng được hưởng lợi nhất từ thủ thuật. |
Mạnh |
Hội chứng viêm đa cơ quan ở nhi khoa — ở con nít (MIS-C) |
|
37. Nên xử trí hỗ trợ và theo dõi nâng cao (xem phần “tương trợ huyết động”). |
|
38. Nên hoàn tất sớm điện tâm đồ và siêu thanh chức năng tim và lưu lượng mạch vành. |
thực hiện tốt nhất |
39. Các nghiên cứu hình ảnh nên bao gồm chụp X-quang phổi, siêu âm bụng, CT ngực. |
Thực hành tốt nhất |
40. Một nhóm đa ngành, bao gồm chăm nom đặc biệt, Tim mạch, Bệnh lây truyền và Thấp khớp, nên xử trí những bệnh nhân này. |
Thực hành tốt nhất |
41. Đánh giá trong phòng thí nghiệm nên bao gồm xét nghiệm SARS-CoV-2, dấu ấn sinh vật học về tình trạng viêm và rối loạn chức năng hệ thống đa cơ quan. |
Thực hành tốt nhất |
42. Bắt đầu dùng kháng sinh theo kinh nghiệm cho đến khi loại trừ hội chứng nhiễm trùng huyết do vi khuẩn, tụ cầu hoặc liên cầu. |
Thực hành tốt nhất |
43. Các loại thuốc cần xem xét để xử trí MIS-C bao gồm solumedrol, IVIG, thuốc chống đông máu (xem phần “Liệu pháp bổ trợ”), và thuốc sinh học (ví dụ: Anakinra, thuốc ức chế IL-6) và phải dựa trên mức độ bệnh của bệnh nhân bằng cách dùng phương pháp đa mô thức . |
Không đủ chứng cớ |
44. Đối với những bệnh nhân đáp ứng cụ thể các tiêu chí bệnh Kawasaki (cổ điển hoặc không điển hình), dùng IVIG (2 g/kg) và aspirin liều cao (50 mg/kg). |
Mạnh |
Vào thời khắc toàn cầu thiếu máy thở, đặc biệt là ở những nơi hạn chế về nguồn lực, nên xem xét các phương pháp hỗ trợ hô hấp thay thế như bCPAP. WHO Khuyến cáo sử dụng CPAP xủi bọt để điều trị trẻ con nhiễm COVID-19 bị giảm oxy máu, viêm phổi nặng và/hoặc ARDS dựa trên các thử nghiệm ở Bangladesh và Ghana. 26,27,28,29 Các nghiên cứu này chứng minh kết quả cải thiện ở bệnh nhi được điều trị bằng thiết bị bCPAP được phát triển cục bộ. Do đó, trong những tình huống không thể thở máy, bCPAP có thể được dùng cho trẻ sơ sinh và trẻ bị giảm oxy máu nặng, và có thể sẵn sàng hơn ở những cơ sở hạn chế về nguồn lực. 26 Một đánh giá hệ thống gần đây cho thấy việc sử dụng HFNC và bCPAP trong trẻ bị viêm phổi nặng giảm nhu cầu đặt nội khí quản và thở máy; trẻ nhỏ nói riêng có ích lớn hơn từ việc dùng bCPAP. 29 Điều tấm là bệnh nhân được điều trị bằng HFNC hoặc NIPPV phải được theo dõi chặt về tình trạng xấu đi trên lâm sàng. chung cuộc, vì tất tật các hình thức hỗ trợ hô hấp đều có nguy cơ bị nhiễm khí dung, các viên chức y tế phải đảm bảo các biện pháp phòng ngừa trong không khí và sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân ăn nhập.
Khuyến cáo điều trị cho thở máy lấn chiếm
3.con nít bị COVID-19 thất bại NIPPV nên được chuyển sang thở máy thâm nhập (Khuyến cáo mạnh).
4.Ở trẻ con bị COVID-19 cần đặt nội khí quản, thủ thuật nên được thực hành bởi một nhân viên y tế được đào tạo và có tay nghề cao (Khuyến cáo mạnh).
5.Trẻ bị COVID-19 cần đặt nội khí quản nên được đặt nội khí quản bằng ống nội khí quản có bóng chèn (Khuyến cáo mạnh).
6.Đối với trẻ mắc COVID-19 cần đặt nội khí quản, nên cân nhắc sử dụng nội soi thanh quản video để đặt nội khí quản (Khuyến cáo yếu).
7.Thiết bị bảo vệ cá nhân chủ nghĩa (PPE) nên được mặc khi đặt nội khí quản và rút nội khí quản cho vơ trẻ con có COVID-19 (Khuyến cáo mạnh).
8.Đối với trẻ bị COVID-19 cần thở máy, thể tích khí lưu thông nên được giới hạn ở mức 6 ml/kg (Khuyến cáo yếu).
9.Đối với trẻ mắc COVID-19 cần thở máy, nên chuẩn độ áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) cho từng bệnh nhân và tuổi ARDS của họ (Khuyến cáo yếu).
10.Đối với con trẻ bị COVID-19 cần thở máy, nên cân nhắc phong độ nằm sấp ở bệnh nhân ARDS và giảm oxy máu nặng (Khuyến cáo yếu).
11.Đối với trẻ nít bị COVID-19 cần thở máy với tình trạng giảm oxy máu kháng trị, không nên sử dụng oxit nitric dạng hít (Không đủ chứng cứ).
12.Đối với con trẻ bị COVID-19 cần thở máy, thở máy nao núng tần số cao (HFOV) không được khuyến khích áp dụng thường quy nhưng có thể được coi xét trong một số trường hợp chọn lọc (Không đủ chứng cớ).
Cơ sở lý luận
Những bệnh nhân bị giảm oxy máu tiến triển, tình trạng tâm thần thay đổi, hoặc tiếp tục tăng công thở khi điều trị NIPPV nên được đặt nội khí quản (thí dụ ARDS tiến triển). Nhiều lần đặt nội khí quản có thể dẫn đến kết quả kém hơn cho bệnh nhân 30 và khiến người nhân viên y tế có nguy cơ tiếp xúc với COVID-19 nhiều hơn; do đó, nên đặt nội khí quản bởi viên chức y tế có tay nghề cao nhất. Trước khi đặt nội khí quản, tương trợ hô hấp bằng bóp bóng qua mặt nạ có thể trở thành một thủ thuật tạo khí dung; do đó, nên đặt nội khí quản theo lớp lang nhanh (RSI) có sử dụng thuốc giãn cơ. Nên cho thở oxy trước bằng oxy 100% (trừ khi có chống chỉ định, thí dụ bệnh nhân bệnh tim bẩm sinh tím) để giảm thiểu tình trạng thiếu oxy với RSI; trẻ có nguy cơ thiếu oxy cao do dung tích cặn chức năng thấp hơn. Nội soi thanh quản bằng video, nếu có, có thể được dùng để tăng khoảng cách giữa bệnh nhân và nhân viên y tế. 31 Sau khi bệnh nhân được đặt nội khí quản, phải bơm ngay bóng chèn ống nội khí quản để tránh tạo khí dung. Đặt nội khí quản là một thủ thuật tạo khí dung; do đó, nhân viên y tế đề nghị PPE đầy đủ để tự bảo vệ mình. PPE bao gồm áo choàng dài tay chống thấm nước dùng một lần, kính bảo hộ hoặc tấm che mặt dùng một lần và khẩu trang N95. Nếu có, có thể dùng mặt nạ lọc không khí (PAPR) được cấp nguồn thay cho mặt nạ N95. Nên đội mũ giải phẫu dùng một lần để giảm gây ô nhiễm tóc bởi các giọt nhỏ. 32
Để bảo vệ nhân viên y tế hơn nữa, các quy trình khác cũng đã được giới thiệu, bao gồm một hộp đặt ống nội khí quản acryl, 33 tấm màn nhựa, 30 cũng như kỹ thuật đặt ống qua mặt nạ. 34 dùng bộ lọc virus kỵ nước đặt tại các cửa ra của máy thở và ứng dụng hút kín nội tuyến được đề xuất để giảm thiểu nguy cơ lây. Rút nội khí quản cũng là một quy trình tạo khí dung; do đó, phải mặc PPE.
Các chỉ dẫn hoặc quy trình xử trí chung 35 đối với thở máy trong ARDS có thể được áp dụng cho bệnh nhân COVID-19 bị suy hô hấp. Thể tích khí lưu thông thấp, 4−6 ml/kg đối với trọng lượng thân thể lý tưởng, chiến lược bảo vệ phổi thường được khuyến khích. 35 Tuy nhiên, thể tích khí lưu thông lớn hơn thường được dùng trong các đơn vị săn sóc đặc biệt dành cho trẻ mỏ (PICU) trên khắp thế giới 36 ; do đó, nên tiếp kiến sử dụng các thể tích khí lưu thông quen thuộc với từng cơ sở. Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu quan sát ở trẻ nít không chứng minh được ích sống sót khi giảm thể tích khí lưu thông 37 và phân tích hồi cứu bệnh nhân ARDS tại một trọng tâm duy nhất cũng không cho thấy mối liên tưởng giữa thể tích khí lưu thông và kết cuộc. 38
Về mức PEEP, kinh nghiệm ở bệnh nhân COVID19 người lớn ở Ý không khuyên nên dùng PEEP cao hơn luôn 39 , điều này khác với các khuyến cáo trước đây về việc dùng PEEP trong ARDS. 35 Trong tuổi sớm của suy hô hấp với COVID-19, đa số bệnh nhân có biểu lộ giảm oxy máu nghiêm trọng do tăng tỷ lệ shunt trong phổi; tuy nhiên, độ giãn nở của phổi tương đối được duy trì. 39 Trong cảnh huống này, áp dụng PEEP cao có thể có tác dụng bất lợi, và vận dụng PEEP tương đối thấp và ưng ý bão hòa oxy thấp hơn (80 đến 90) có thể được khuyên nếu bệnh nhân bị suy một cơ quan đơn thuần là phổi. Trong giai đoạn sau, sinh lý bệnh có thể thay đổi thành ARDS 39 điển hình đòi hỏi PEEP cao hơn. Nên chuẩn độ PEEP theo cá nhân chủ nghĩa và huyết động học của bệnh nhân phải được theo dõi chặt đẹp khi tăng PEEP.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng nằm sấp có thể cải thiện quá trình oxygen hóa. 40 Tuy nhiên, chiến lược này chỉ nên được thực hành bởi các nhóm săn sóc bệnh nhân nằm sấp thường xuyên. Oxit nitric dạng hít có thể cải thiện quá trình oxygen hóa, nhưng cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh lợi. sống sót. Do đó, thông khí cơ học thường nhật sử dụng PEEP cá nhân hóa được khuyến cáo 42 ; những bệnh nhân độ giãn nở phổi còn bảo tồn có thể không đề nghị PEEP cao trong khi những bệnh nhân độ giãn nở phổi thấp sẽ được hưởng lợi từ PEEP nhiều hơn.
rút cục, mặc dầu không được liệt kê như một khuyến cáo, nên dùng chiến lược truyền dịch hạn chế ở bệnh nhân ARDS nếu huyết động học của bệnh nhân cho phép hạn chế dịch.
Nếu có, có thể cân nhắc oxygen hóa màng ngoài thân (ECMO) ở những bệnh nhân tiếp kiến bị giảm oxy máu nặng mặc dù đã được tương trợ tối đa (xem phần “Cân nhắc ECMO”).
tương trợ huyết động
Dạng lâm sàng
diễn đạt lâm sàng của con nít bị COVID-19 có thể từ nhịp tim nhanh đến các dấu hiệu kinh điển của sốc và suy tim. Sự hiện diện của nhịp tim nhanh đổi thay từ 6 đến 42%. 5,43
Các mỏng ở bệnh nhân người lớn chỉ ra rằng bệnh nhân bị tổn thương cơ tim có thể bị loạn nhịp tim và viêm cơ tim. Sự hiện diện của tổn thương cơ tim và tăng các dấu ấn sinh học tim có liên can đến kết quả xấu hơn với tỷ lệ tử vong tăng gấp 10 lần. 44 thương tổn tim có thể được phát hiện bằng các dấu ấn sinh vật học tim tăng cao, chả hạn như troponin, creatine kinase (CK) và isoenzyme MB của nó, điện tâm đồ (EKG ) và các thất thường về siêu thanh tim. Hình ảnh tim to có thể được chứng minh qua chụp X-quang hoặc CT ngực. 45,46 Bệnh nhân nhi có nguy cơ phát triển viêm cơ tim bao gồm những bệnh nhân có bệnh kèm theo, chẳng hạn như bệnh tim, hoặc những bệnh nhân tiến triển đến tuổi tăng viêm nặng.
Khuyến cáo điều trị cho sốc
13.Đối với trẻ mỏ bị COVID-19 và sốc được đưa vào hệ thống y tế có sẵn PICU (tương trợ thông khí và tiếp cận với các amin vận mạch), truyền dịch bolus, 10–20 ml/kg mỗi bolus, lên đến 40–60 ml/kg, trên giờ trước hết của hồi sức 47 (Khuyến cáo yếu).
14.Đối với trẻ em bị COVID-19 và bị sốc được đưa vào hệ thống y tế không có PICU (không có hỗ trợ thở máy và tiếp cận với các amin vận mạch) 47 :
Bệnh nhân không bị hạ áp huyết , không cần truyền dịch bolus và bắt đầu truyền dịch duy trì (Khuyến cáo mạnh).
Bệnh nhân bị hạ huyết áp , truyền dịch bolus, 10–20 ml/kg mỗi bolus cho đến 40 ml/kg, trong giờ đầu hồi sức (Khuyến cáo yếu).
15.Ở trẻ thơ bị COVID-19 và bị sốc, nên dùng các dung dịch tinh thể thay vì dung dịch keo, để hồi sức dịch ban đầu. Cụ thể, chúng tôi khuyến cáo sử dụng các dung dịch cân bằng hơn là 0,9% muối (Khuyến cáo yếu).
16.Ở trẻ em bị COVID-19 và sốc, nên nhắm đích áp lực động mạch nhàng nhàng (MAP) thích hợp với lứa tuổi. Ở những nơi không thể dễ dàng lấy được MAP chuẩn xác, huyết áp tâm thu là một tuyển lựa có thể ưng được (Khuyến cáo mạnh).
17.Ở trẻ thơ bị COVID-19 và sốc, xem xét dùng các biến số huyết động nâng cao, nếu có (đo chỉ số tim, sức cản mạch hệ thống và độ bão hòa oxy tĩnh mạch trọng tâm); những điều này cùng với các biến số lâm sàng tại giường bệnh có thể hướng dẫn hồi sức (Khuyến cáo yếu).
18.Ở trẻ con bị COVID-19 và sốc, ngoài việc đánh giá lâm sàng, các thiên hướng về nồng độ lactate trong máu có thể giúp hướng dẫn hồi sức (Khuyến cáo yếu).
19.Ở trẻ nít bị COVID-19 và bị sốc, nên dùng epinephrine hoặc norepinephrine, thay vì dopamine. Dung dịch pha loãng có thể được bắt đầu truyền qua một ống thông tĩnh mạch ngoại vi nếu không có đường vào tĩnh mạch trọng tâm (Khuyến cáo thực hiện tốt nhất).
20.Ở trẻ mỏ bị COVID-19 và bị sốc cần catecholamine liều cao, hãy cân nhắc bắt đầu sử dụng vasopressin (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
21.Ở con nít bị COVID-19 và bị sốc, không thể đưa ra các khuyến cáo về việc sử dụng thuốc giãn mạch tăng co bóp. Nhưng trong thực hiện lâm sàng, có thể dùng các thuốc giãn mạch tăng co bóp như milrinone, dobutamine hoặc levosimendan khi có dấu hiệu giảm tưới máu mô và rối loạn chức năng tim, mặc dù đã sử dụng catecholamine liều cao (Khuyến cáo thực hiện Tốt nhất).
22.Ở con trẻ bị COVID-19 và sốc kháng trị, hãy coi xét liều glucocorticoid chống viêm (Không đủ bằng chứng).
23.Ở một bệnh nhi bị COVID-19 và bệnh nặng, nên tiến hành đánh giá tim toàn diện bao gồm điện tâm đồ, siêu thanh tim và các mức chỉ dấu sinh học tim (troponin, CK và CK MB) (Khuyến cáo mạnh).
24.Liệu pháp chống viêm glucocorticoid và globulin miễn nhiễm tiêm tĩnh mạch (IVIG) là những phương pháp điều trị được đề xuất tiềm năng cho trẻ bị viêm cơ tim liên tưởng đến COVID-19 (Không đủ bằng cớ).
Cơ sở lý luận
Sự cần thiết của việc truyền dịch bolus nên được chỉ dẫn bởi các đánh giá lâm sàng thẳng tuột (nhịp tim, huyết áp, hồi phục mao mạch, mức độ ý thức, lượng nước giải), nồng độ lactate huyết thanh tiếp nối và theo dõi huyết động nâng cao khi có sẵn. Trong trường hợp quá tải dịch, (dấu hiệu phù phổi và/hoặc gan to), cần đánh giá lại việc hồi sức dịch. Ở những cơ sở có sẵn dịch vụ chăm nom hỗ trợ nâng cao, các nghiên cứu gần đây cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa các chiến lược hồi sức bằng dịch hạn chế và cho phép. 47,48,49,50 thử nghiệm FEAST được thực hiện ở Châu Phi đánh giá việc hồi sức bằng dịch trong những cơ sở có nguồn lực hạn chế cho thấy sự cần thiết phải được cẩn trọng khi hồi sức tích cực bằng dịch truyền. 51
Các nghiên cứu cho thấy không có ích kết cục nào cho bệnh nhân được hồi sức bằng dung dịch tinh thể so với dung dịch keo. Các dung dịch tinh thể được khuyến cáo dựa trên chi phí thấp hơn, tính khả dụng cao hơn và rủi ro tiêm truyền can dự đến việc sử dụng dung dịch keo.
dù rằng lactate máu không được coi là thước đo trực tiếp cho sự tưới máu mô, nhưng lactate cao có can hệ đến kết quả bợt hơn ở trẻ mỏ. 52 ngoại giả, dữ liệu người lớn cho thấy tỷ lệ tử vong thấp hơn đáng kể và cải thiện các kết quả khác khi hồi sức được chỉ dẫn bằng các phép đo lactate tiếp nối. 53,54,55,56 Nồng độ lactate trong máu tăng liên tục có thể cho thấy sự hồi sức huyết động không hoàn toàn và cần kích hoạt các cố gắng để khôi phục tưới máu mô đầy đủ và thiết lập sự ổn định huyết động.
Để tương trợ co bóp, nên chọn epinephrine hoặc norepinephrine làm thuốc vận mạch trước hết được chỉ dẫn theo sở thích lâm sàng, sinh lý bệnh nhân cá nhân và các nhân tố hệ thống tại chỗ. Cả hai đều có tác dụng co bóp và vận mạch và có hiệu quả trong điều trị trẻ con bị sốc kháng trị với dịch truyền. Epinephrine nên được coi là thuốc đầu tay ở bệnh nhân rối loạn chức năng cơ tim và norepinephrine cho bệnh nhân có sức cản mạch hệ thống thấp, theo khuyến cáo trong chỉ dẫn của Surviving Sepsis Campaign (SSC). Thực hành theo phác đồ của bệnh viện và sự sẵn có của vasopressin nên xác định xem liệu có thể bắt đầu và khi nào nó có thể được bắt đầu hay không. mặc dầu không có RCTs đối với thuốc giãn mạch ở trẻ em bị sốc, chúng nên được xem xét ở bệnh nhân viêm cơ tim hoặc hội chứng cung lượng tim thấp. Glucocorticoid cũng có thể được coi xét cho những bệnh nhân bị sốc kháng thuốc (xem phần “Điều trị bằng thuốc” để đàm đạo thêm).
Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu viêm cơ tim, ngoài việc điều trị hỗ trợ, một số bẩm giai thoại ở bệnh nhân người lớn bị COVID-19 và viêm cơ tim yêu cầu điều trị IVIG.
Liệu pháp bổ trợ
Dạng lâm sàng
Trong phần này, chúng tôi luận bàn về một số liệu pháp tương trợ quan yếu có thể áp dụng cho trẻ bị bệnh nặng do COVID-19. Nhiều liệu pháp trong số này được diễn đạt ở người lớn bị bệnh nặng nhưng bộc lộ của chúng ở nhóm trẻ nít vẫn còn hạn chế. Các liệu pháp này bao gồm kiểm soát thể huyết khối thường xảy ra ở bệnh nhân người lớn bị COVID-19, truyền huyết tương hồi phục, liệu pháp dinh dưỡng và các liệu pháp thay thế thận.
Khuyến cáo điều trị
25.Cân nhắc liệu pháp chống đông máu cho trẻ thơ với COVID-19 (Khuyến cáo yếu):
a) Nguy cơ cao mắc chứng huyết khối tĩnh mạch (VTE) (nghĩa là những người có ống thông tĩnh mạch trọng tâm nội hoặc ngoại vi 59,60 hoặc bị bệnh nặng không có tình trạng tăng viêm và không có nguy cơ hình thành huyết khối), hãy xem xét:
enoxaparin tiêm dưới da <2 tháng:="" 0,75="" mg="kg/liều" trong="" vòng="" 12="" giờ;="" ≥2="" 0,5="" giờ<="p">
đích nhân tố chống Xa: 0,3–0,5 IU/ml
b)trẻ mỏ có COVID-19 có nguy cơ cao bị VTE (tức là bệnh nặng, tình trạng tăng viêm - protein phản ứng C 150 mg/l, D-dimer 1500 ng/ml, IL-6 100 pg/ml, ferritin 500 ng/ml, hoặc tiền sử các biến cố huyết khối tắc mạch trong quá cố) xem xét:
enoxaparin tiêm dưới da <2 tháng:="" 1,5="" mg="kg/liều" cách="" đây="" 12="" giờ;="" ≥2="" 1="" trong="" vòng="" giờ<="p">
đích yếu tố chống Xa: 0,5–1 IU/ml
26.Ở con nít bị bệnh nặng với COVID-19, suy đa cơ quan liên hệ đến giảm tiểu cầu (TAMOF: số lượng tiểu cầu dưới 100 × 10 9 /l và hai hoặc nhiều cơ quan bị suy), và sự thiếu hụt ADAMTS-13 mắc phải có thể chỉ ra một quá trình bệnh lý vi mạch do huyết khối. Đối với những bệnh nhân như vậy, thay huyết tương điều trị có thể có lợi trong việc kiểm soát tình trạng tăng viêm và huyết khối và đảo ngược rối loạn chức năng cơ quan 61,62 (Khuyến cáo yếu).
27.Đối với trẻ em bị bệnh nghiêm trọng với COVID-19, chúng tôi yêu cầu điều trị huyết tương bình phục chỉ được cung cấp trong khuôn khổ nghiên cứu hoặc trên cơ sở bác ái (Không đủ bằng chứng).
28.Đối với trẻ mỏ bị COVID-19 nhập viện PICU, bắt đầu nuôi dưỡng đường ruột cho bệnh nhân không có chống chỉ định, nhưng không nên bắt đầu nuôi dưỡng đường tĩnh mạch trong 7 ngày trước hết nhập viện PICU (Khuyến cáo yếu).
29.Đối với trẻ em bị COVID-19 tiến triển quá tải dịch hoặc rối loạn chức năng thận và không đáp ứng với liệu pháp lợi tiểu, hãy xem xét liệu pháp thay thế thận (Khuyến cáo yếu).
Cơ sở lý luận
Tỷ lệ cao huyết khối tĩnh mạch (thí dụ huyết khối đường trọng tâm và các biến cố tắc huyết quản như thiếu máu cục bộ tứ chi và đột quỵ) đã được quan sát thấy ở bệnh nhân người lớn mắc bệnh nghiêm trọng COVID-19.63,64,65,66,67,68 dù rằng COVID-19 trẻ em bệnh nhân chưa gặp biến chứng huyết khối, các bất thường về đông máu được ít ăn nhập với tình trạng tăng huyết khối: tăng nồng độ Ddimer, protein phản ứng C, procalcitonin, IL-6 và giảm tiểu cầu. 18,69,70,71 Đáp ứng tăng viêm nhiễm trùng có thể là cơ chế gây bệnh chính liên hệ. 72,73 Ở người lớn bị nhiễm COVID-19, heparin dường như làm giảm tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân có D-dimer cao. 74,75 Các xét nghiệm để coi xét ở những bệnh nhân có biến chứng huyết khối bao gồm: số lượng tiểu cầu, PTT, fibrinogen, antithrombin III, ADAMTS-13, IL-6, D-dimer, protein phản ứng C, procalcitonin, ferritin, hemoglobin không có huyết tương, mảnh vỡ hồng huyết cầu, LDH, haptoglobin và đo huyết khối (TEG).
Thay huyết tương trị liệu đã được đề xuất cho những bệnh nhân nhiễm COVID-19 giai đoạn cuối vì nó mang lại ích lợi trên nhiều cấp độ bằng cách loại bỏ các cytokine gây viêm, ổn định màng nội mô và thiết lập lại trạng thái tăng đông máu. 76 Tuy nhiên, sử dụng liệu pháp thay huyết tương ở trẻ mỏ bị COVID-19 đã không được ít cho đến nay.
Trong các đại dịch trước đây (tỉ dụ, SARS, H1N1 2009, MEWRS-CoV), các phương pháp điều trị huyết tương hồi phục đã được dùng như một phần của các chiến lược xử trí. 77,78,79 Vì huyết tương bình phục có khả năng ức chế virut trong máu ở COVID-19, 80 nên càng ngày càng có nhiều biểu hiện của điều trị huyết tương phục hồi, dù rằng chủ yếu là bẩm ca bệnh và loạt ca bệnh.
Cho đến nay, không có hướng dẫn cụ thể về dinh dưỡng cho con trẻ bị bệnh nghiêm trọng với COVID-19. Hiệp hội Y học trông nom nghiêm trọng cùng với Hiệp hội Dinh dưỡng Đường tĩnh mạch và Đường ruột Hoa Kỳ đã cung cấp một số hướng dẫn về liệu pháp dinh dưỡng cho bệnh nhân người lớn bị bệnh nặng. 81
chứng cớ hiện có sẵn từ những người lớn bị bệnh nặng với COVID-19 cho thấy chấn thương thận cấp tính (AKI) không phải là hiện tượng phổ biến 82 và không có khuyến cáo nào được đưa ra trong chỉ dẫn surviving sepsis cho COVID-19. 83 Cho đến nay, không có dữ liệu cụ thể về tỷ lệ mắc AKI ở trẻ con bị bệnh nặng với COVID-19.
Hồi sinh tim phổi (CPR)
Dạng lâm sàng
Ở những bệnh nhi bị nhiễm COVID-19 mất mạch do vô tâm thu, hoạt động điện không mạch (PEA), rung thất hoặc nhịp nhanh thất không mạch, nên xem xét các khuyến cáo sau.
Khuyến cáo điều trị
30.Hạn chế số lượng viên chức trong phòng dành cho bệnh nhi mắc COVID-19 cần hồi sức tim phổi (Khuyến cáo thực hiện tốt nhất).
31.Đối với bệnh nhi COVID-19 bị ngừng tim, hãy tuân thủ các chỉ dẫn tiêu chuẩn về tỷ lệ hô hấp nhân tạo và phương pháp điều trị ngừng tim (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
32.Đối với bệnh nhân được đặt nội khí quản, các Khuyến cáo bao gồm (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất):
Tăng nồng độ oxy hít vào (FiO 2 ) lên 1,0.
đổi thay chế độ sang Thông khí Kiểm soát áp lực và giới hạn sức ép khi cấp thiết để tạo ra sự nâng ngực.
Điều chỉnh kích hoạt thành OFF sẽ ngăn máy thở tự động kích hoạt khi ép ngực và có thể ngăn ngừa tăng thông khí.
Điều chỉnh tần số hô hấp 10/phút cho người lớn và trẻ nít.
Điều chỉnh mức PEEP để thăng bằng thể tích phổi và sự hồi lưu của tĩnh mạch.
Nếu đạt được sự lưu thông tuần hoàn tự phát trở lại, hãy đặt cài đặt máy thở hợp với tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
33.Bệnh nhân ở phong thái nằm sấp tại thời khắc ngừng tim mà không có đường thở nâng cao nên được đặt nằm ngửa. Tuy nhiên, bệnh nhân được đặt nội khí quản có thể vẫn nằm sấp và có thể bắt đầu hô hấp nhân tạo trong khi bệnh nhân nằm sấp (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
34.Đối với con trẻ mắc COVID-19 yêu cầu nhập PICU, hãy giảng giải các đích chăm chút với ba má hoặc người được ủy quyền khi các liệu pháp duy trì sự sống đang được leo thang (Khuyến cáo về phương pháp hay nhất).
Cơ sở lý luận
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) đã sửa đổi các chỉ dẫn thường nhật 84 và đưa ra các nguyên tắc chung sau đây khi thực hành hô hấp nhân tạo cho bệnh nhân nghi có COVID-19. Các chỉ dẫn đã được sửa đổi để bảo vệ các nhân viên y tế và giảm phơi nhiễm COVID-19. vớ những người cứu hộ phải sử dụng PPE để bảo vệ chống lại cả các hạt trong không khí và các hạt nhỏ giọt. Nên hạn chế nhân sự trong phòng. Nếu có, nên sử dụng thiết bị hô hấp nhân tạo cơ học trên thanh thiếu niên thay vì ép ngực bằng tay để bảo vệ lực lượng cứu hộ.
Để giảm nguy cơ khí dung COVID-19, bệnh nhân nên được đặt nội khí quản bằng ống nội khí quản có bóng chèn và kết nối với máy thở có ống thông hút nội tuyến và bộ lọc không khí dạng hạt hiệu quả cao (HEPA) trong đường dẫn khí thở ra. Nếu có thể, bộ lọc HEPA nên được gắn vào tuốt các thiết bị thông khí bằng tay hoặc cơ học (xem phần “Thông khí” liên hệ đến đặt nội khí quản).
Đối với những bệnh nhân đã được đặt nội khí quản tại thời điểm ngưng tim, họ nên tiếp kiến thở máy với bộ lọc HEPA để giảm thiểu tình trạng tạo khí dung. Các nguyên tắc chung của máy thở là tối ưu hóa lượng oxy và sự hồi lưu của tĩnh mạch song song giảm thiểu siêu bơm phồng. 85
Những bệnh nhân nằm sấp tại thời khắc ngưng tim mà không có đường thở nâng cao, khuyến cáo là đặt họ nằm ngửa và tiếp kiến hồi sức. mặc dầu hiệu quả của hô hấp nhân tạo ở tư thế nằm sấp chưa được biết rõ hoàn toàn, đối với những bệnh nhân được thở bằng đường thở nâng cao, tránh chuyển bệnh nhân về tư thế nằm ngửa trừ khi có thể thực hiện được mà không có nguy cơ ngắt kết nối thiết bị và khí dung. Thay vào đó, hãy cân nhắc đặt các miếng đệm khử rung tim ở vị trí trước - sau và hô hấp nhân tạo khi bệnh nhân vẫn nằm sấp với tay ở vị trí chuẩn trên thân đốt sống T7/10. 86
Cân nhắc sự phù hợp của việc bắt đầu và đấu CPR ở bệnh nhân COVID-19. Việc xem xét độ tuổi, bệnh đi kèm và chừng độ nghiêm trọng của bệnh là hợp lý để xác định sự phù hợp của hồi sức và thăng bằng khả năng thành công với rủi ro đối với người cứu hộ và bệnh nhân mà các nguồn lực đang được chuyển hướng. Nên giảng giải các mục tiêu chăm sóc với bố mẹ (hoặc người được ủy quyền) trước khi xảy ra tình huống ngưng tim.
Cân nhắc về ECMO
Dạng lâm sàng
Ở những bệnh nhân PICU bị SARS-CoV-2 phát triển giảm oxy máu kháng trị hoặc hạ áp huyết dù rằng được hỗ trợ y tế tối đa, ECMO có thể được xem xét.
Khuyến cáo điều trị
35.ECMO nên được xem xét ở bệnh nhi nhiễm COVID-19 để xử trí ARDS và/hoặc suy tim (viêm cơ tim, loạn nhịp tim, thuyên tắc phổi) (Khuyến cáo mạnh).
36.Tiêu chí lựa chọn hạn chế cho cả ECMO tĩnh mạch (VA) và tĩnh mạch (VV) nên được vận dụng để dùng ECMO cho những bệnh nhân có nhiều khả năng được hưởng lợi từ thủ thuật (Khuyến cáo mạnh).
Cơ sở lý luận
WHO, 25 Hiệp hội y khoa chăm sóc quan trọng 83 và Tổ chức hỗ trợ Sự sống Ngoài cơ thể 87 đều đã khuyến cáo việc dùng ECMO tiềm năng trong các trường hợp nghiêm trọng của COVID-19. Tuy nhiên, tại thời khắc gửi ấn phẩm này, các chỉ định và chống chỉ định cụ thể cho việc dùng COVID19 rất khan hiếm và dữ liệu kết quả thu được từ Trung Quốc không được khuyến khích. 88 Tuy nhiên, những kinh nghiệm hăng hái sơ bộ ở Hàn Quốc và Nhật Bản cho thấy việc sử dụng ECMO để xử trí ARDS do SARS-CoV-2 và/hoặc suy tim (viêm cơ tim, loạn nhịp tim, thuyên tắc phổi) không đáp ứng với điều trị y tế tối đa. 89
Việc bắt đầu và tuyển lựa bệnh nhân cho cả VA và VV ECMO không được sai lệch so với các hướng dẫn hiện có. 90 Nên triển khai ECMO sớm để tránh tiến triển thành suy đa cơ quan. Tuổi lớn hơn, có nhiều hơn hai bệnh đi kèm, tình trạng suy giảm miễn dịch (giảm bạch cầu) không phải là chống chỉ định tuyệt đối; tuy nhiên, mỗi trường hợp nên được đánh giá trên cơ sở cá nhân chủ nghĩa. 91,92 Trong một đại dịch, ECMO chỉ nên được bắt đầu tại một trọng điểm có kinh nghiệm, nhưng ngay cả ở những trung tâm như vậy, sự sẵn có của thiết bị và nguồn nhân lực cần được xem xét trước khi triển khai một can thiệp dùng nhiều nguồn lực. Không nên bắt đầu hồi sinh tim phổi ngoài thân thể (eCPR) ở các trọng điểm hoặc trọng điểm ít kinh nghiệm hơn mà không có chương trình eCPR hiện có trước đại dịch. Khi gánh nặng bệnh tật tăng lên, các tiêu chí chọn lọc cho cả ECMO hô hấp và tim sẽ trở thành nghiêm nhặt hơn để dùng ECMO cho những bệnh nhân có nhiều khả năng được hưởng lợi nhất. Với sinh lý bệnh của SARS-CoV-2 ở người, con nít có thể có kết quả tốt hơn bệnh nhân người lớn và do đó có thể là đối tượng cần đầu tư các nguồn lực ECMO.
Hội chứng viêm đa cơ quan ở nhi - trẻ thơ (MISC-C)
trình diễn.# lâm sàng/định nghĩa ca bệnh
Các dấu hiệu tiềm tàng đối với MIS-C là sốt, mỏi mệt, thay đổi trạng thái ý thức, đau cổ, khó hô hấp, đau ngực, nôn mửa, đi tả, đau bụng, phát ban và viêm kết mạc. Cụ thể, định nghĩa trường hợp của MIS-C theo trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh bao gồm những điều sau đây 93 :
Bệnh nhân <21 tuổi="" có="" biểu="" hiện="" sốt="" (≥38,0°c="" trong="" ≥="" 24="" giờ,="" hoặc="" báo="" cáo="" của="" bệnh="" nhân="" kéo="" dài="" ≥24="" giờ),="" các="" dấu="" hiệu="" viêm="" bị="" thay="" đổi="" (protein="" phản="" ứng="" c,="" tốc="" độ="" lắng="" hồng="" cầu,="" fibrinogen,="" procalcitonin,="" ddimer="" ,="" ferritin,="" axit="" lactic="" dehydrogenase="" il-6,="" tăng="" bạch="" cầu="" trung="" tính,="" giảm="" tế="" bào="" lympho,="" albumin="" thấp)="" và="" nặng="" về="" mặt="" lâm="" sàng="" cần="" nhập="" viện,="" hai="" nhiều="" cơ="" quan="" liên="" (tim,="" thận,="" hô="" hấp,="" huyết="" học,="" tiêu="" hóa,="" da="" liễu="" thần="" kinh="" );<="p">
VÀ
Không có chẩn đoán nào khác (chả hạn như nhiễm trùng huyết do vi khuẩn, hội chứng tụ cầu hoặc liên cầu); VÀ
Nhiễm SARS-CoV-2 gần đây hoặc hiện tại, phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược dương tính (RT-PCR) hoặc xét nghiệm huyết thanh học, hoặc phơi nhiễm COVID19 trong khoảng thời gian 4 tuần trước khi các triệu chứng khởi phát.
Cần lưu ý rằng chừng độ bệnh của bệnh nhân trong bệnh viện có thể từ nhẹ đến nặng. Hội chứng viêm đa cơ quan nên được coi xét trong bất kỳ trường hợp tử vong nào ở trẻ con có bằng cớ nhiễm SARS-CoV-2.
Khuyến cáo điều trị cho những bệnh nhân quan tâm đến MIS-C
37.Cần xử trí hỗ trợ và theo dõi nâng cao (xem phần “hỗ trợ huyết động”).
38.Nên hoàn thành ECG sớm và siêu thanh chức năng tim và lưu lượng mạch vành (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
39.Các nghiên cứu hình ảnh nên bao gồm chụp Xquang phổi, siêu âm bụng, CT ngực (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
40.Một nhóm đa ngành, bao gồm coi sóc đặc biệt, Tim mạch, Bệnh lây truyền và phong thấp, nên xử trí những bệnh nhân này (Khuyến cáo Thực hành tốt nhất).
41.Đánh giá phòng thí điểm nên bao gồm xét nghiệm SARS-CoV-2, dấu ấn sinh học về tình trạng viêm và rối loạn chức năng hệ thống đa cơ quan (Khuyến cáo thực hiện tốt nhất).
42.Bắt đầu dùng kháng sinh theo kinh nghiệm cho đến khi loại trừ hội chứng nhiễm trùng huyết do vi khuẩn, tụ cầu hoặc liên cầu (Khuyến cáo thực hiện tốt nhất).
43.Các biện pháp cần coi xét để xử trí MIS-C bao gồm solumedrol, IVIG, thuốc chống đông máu (xem phần “Liệu pháp bổ trợ”), và sinh phẩm (ví dụ Anakinra, thuốc ức chế IL-6) và phải dựa trên chừng độ bệnh của bệnh nhân bằng cách dùng phương pháp đa mô thức (Không đủ chứng cớ).
44.Đối với những bệnh nhân đáp ứng cụ thể các tiêu chí của bệnh Kawasaki (cổ điển hoặc không điển hình), dùng IVIG (2 g/kg) và aspirin liều cao (50 mg/kg) (Khuyến cáo mạnh).
Cơ sở lý luận
Kể từ khi có cảnh báo ban đầu của Dịch vụ Y tế Quốc gia ở Anh vào ngày 26 tháng 4, nhiều ít trường hợp đã biểu hiện trẻ em có các đặc điểm giống bệnh Kawasaki và sốc tăng viêm. Số trẻ mắc bệnh giống Kawasaki nặng đã được ghi nhận, 97 và thành thị New York ít về 15 trẻ (từ 2–15 tuổi) phải nhập viện (16 tháng 4 - 4 tháng 5) vì hội chứng viêm đa cơ quan. Ngay sau đó, một Cảnh báo Sức khỏe từ CDC 93 đã miêu tả thực thể bệnh này và gắn nhãn nó là MIS-C. Những bệnh nhân này có kết quả dương tính với COVID-19 bằng RT-PCR hoặc huyết thanh học cho thấy có mối liên hệ gây bệnh giữa SARS-CoV-2 và MIS-C. hiện tại vẫn chưa rõ cơ chế gây viêm và thương tổn cơ quan qua trung gian.
Với tính mới của MIS-C, các Khuyến cáo điều trị và Thực hành tốt nhất dựa trên các phương pháp điều trị được dùng trong các quá trình bệnh viêm tích cực khác. Các cơ sở có số ca MIS-C cao đã phát triển các quy trình thiết chế hệ trọng đến việc dùng thuốc và phác đồ dựa trên mức độ bệnh của bệnh nhân, nhưng cho đến nay vẫn chưa có dữ liệu chuẩn xác.
Phương pháp điều trị bằng thuốc
Cho đến nay vẫn chưa có đủ bằng chứng để đưa ra bất kỳ Khuyến cáo dứt khoát nào về liệu pháp bằng thuốc cho bệnh nhi mắc SARS-CoV-2. con nít được bảo vệ khỏi COVID-19 một phần vì chúng có ACE2 thấp, đây là điểm vào để protein đột biến
COVID-19 gắn vào và thâm nhập vào vật chủ. Điều trị sốt bằng acetaminophen hoặc paracetamol là điều cần cẩn trọng vì tác động của thuốc chống viêm không steroid (NSAID) lên con trẻ với COVID-19 là chưa rõ ràng và đang được điều tra.
Vì con nít chiếm <0,1% số="" ca="" tử="" vong="" do="" sarscov-2,="" thông="" tin="" về="" các="" phương="" pháp="" điều="" trị="" bằng="" thuốc="" cụ="" thể="" covid-19="" được="" ngoại="" suy="" từ="" kinh="" nghiệm="" của="" người="" lớn="" ở="" trung="" quốc,="" và="" ý.="" báo="" cáo="" đầu="" tiên="" vũ="" hán,="" quốc="" bệnh="" nhân="" nhập="" viện="" vì="" sars-cov-2="" cho="" thấy="" nhiễm="" trùng="" huyết="" tăng="" ferritin="" máu 98 ở những người đã chết. Sốt phát triển vào ngày thứ nhất, nhiễm trùng huyết vào ngày thứ 10, nhập viện ICU vào ngày thứ 12 (đối với ARDS) và tử vong ở ngày thứ 19. Tăng ferritin máu vào ngày thứ 4 và ngày thứ 7 dự đoán tử vong rất lâu trước khi phát triển nhiễm trùng huyết và nhập viện ICU. Tiến triển đến tử vong được đánh dấu bằng cách tăng nồng độ ferritin, protein phản ứng C, IL-6, LDH và D-dimer. Phương pháp tiếp cận bằng thuốc hiện đang được nghiên cứu ở người lớn99 đã được hình thành để nhắm đích vào tuổi đầu của nhiễm vi-rút (chiến lược kháng vi-rút), và sau đó là thời đoạn thứ hai của phản ứng kháng viêm (chiến lược corticosteroid và sinh vật học) và prothrombotic (chiến lược chống huyết khối) (Bảng 2).
Các chiến lược kháng vi-rút cho SARS-CoV-2
Các thuốc kháng vi-rút tái dùng bao gồm remdesivir (ebola), và lopinavir/ritinovir (HIV); và các liệu pháp tăng cường miễn nhiễm thay thế bao gồm interferon loại I (bệnh đa xơ cứng), và chủng ngừa bị động với huyết tương bình phục. Hiệu quả của các thuốc kháng vi-rút này là tốt nhất khi được dùng sớm trong quá trình nhiễm trùng trước ngày thứ 4 của các triệu chứng. sử dụng interferon tăng cường miễn nhiễm cũng có thể có lợi khi được dùng trước khi cần nhập viện. Vì những lý do thực tiễn, huyết tương bình phục nên được dành cho bệnh nhân nằm viện. Thật không may, các thử nghiệm lâm sàng dành cho người lớn đang diễn ra nhằm điều tra hiệu quả tiềm năng của các liệu pháp này hầu như thường tuân các mốc thời gian hợp lý về mặt sinh học này. Không chắc rằng ích đầy đủ của chúng, nếu có, sẽ được tiết lộ trong các nghiên cứu đang diễn ra ở người lớn. Kinh nghiệm dùng thuốc cho trẻ thơ tồn tại đối với việc sử dụng lopinavir/ritonavir (HIV) và interferon loại 1 (viêm gan hoạt động kinh niên).
Các chiến lược chống viêm
Những chiến lược này có thể được coi xét khi có chứng cứ về chứng viêm quá phát. Các nghiên cứu dành cho người lớn hiện đang dùng kết hợp một số nồng độ ferritin 500, LDH 300 và Ddimers 1000 để xác định những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn. Các chất chống viêm có tác dụng ức chế miễn nhiễm tối thiểu đang được nghiên cứu bao gồm corticosteroid (methylprednisone), chất đối kháng thụ thể interleukin 1 và chất ức chế thụ thể interleukin 6. dùng các thuốc này có nhiều khả năng có lợi hơn nếu được bắt đầu khi xảy ra tình trạng tăng ferritin máu, bắt đầu từ ngày thứ 4 trong trải nghiệm ở Vũ Hán. Do đó, việc theo dõi ferritin nên bắt đầu từ ngày thứ 4 của bệnh và các liệu pháp được đưa ra trước ngày thứ 7 nếu xảy ra tình trạng tăng ferritin máu, và tối ưu là trước khi cần coi ngó đặc biệt vào ngày 12. Điều quan trọng cần lưu ý là phản ứng tăng viêm xảy ra ở một số ít COVID-19 bệnh nhân nhưng có can dự đến tỷ lệ tử vong cao nhất. Không giống như thuốc kháng vi-rút, những liệu pháp chống viêm này chỉ nên dành cho những bệnh nhân bị viêm tăng ferritin máu. Kinh nghiệm dùng thuốc cho trẻ mỏ tồn tại với corticosteroid và protein đối kháng thụ thể interleukin 1 (Hội chứng kích hoạt đại thực bào gây ra viêm khớp ở trẻ vị thành niên) và thuốc ức chế interleukin 6 (liệu pháp tế bào T CAR gây ra Hội chứng giải phóng Cytokine). Các liệu pháp này có thể và cũng nên được xem xét cho bệnh nhân MIS-C.
Bảng 2 Các liệu pháp dùng thuốc.
Các liệu pháp dùng thuốc đang được nghiên cứu ở người lớn đối với COVID-19 |
thời gian lâm sàng tối ưu |
Kháng vi-rút |
|
Remdesivir Lopinavir/ritinovir |
Trước ngày thứ 4 của các triệu chứng |
Tăng cường miễn dịch |
|
Interferon |
Ngày 4-7 của các triệu chứng |
Huyết tương hồi phục |
Trong bệnh viện |
Chống viêm |
|
Corticosteroid (Methylprednisone) Protein đối kháng thụ thể Interleukin 1 Chất ức chế Interleukin 6 |
Ngày 4-7 triệu chứng khi ferritin 500 |
Kinh nghiệm khu vực
Một số cơ sở dữ liệu gần đây đã bắt đầu theo dõi các bệnh nhi bị ảnh hưởng bởi SARS-CoV-2 trên toàn cầu, nhưng các tác giả đã thu thập dữ liệu từ các nguồn sẵn có tốt nhất cho các khu vực tương ứng của họ.
Châu Phi
Do thí điểm hạn chế và khó theo dõi các trường hợp, dữ liệu từ Châu Phi bị hạn chế. Nhưng dữ liệu có thể được xác định được liệt kê ở đây. Tại Uganda, tính đến ngày 23 tháng 4, 63 trường hợp đã được xác nhận, 9 trong số đó là trẻ con dưới 19 tuổi. 100 Không rõ có bao nhiêu bệnh nhân trong số đó có thể phải nhập viện.
Ở Zimbabwe, tổng số 203 trường hợp đã được công nhận và số trường hợp con trẻ là không rõ do họ không đề nghị nhập viện ICU vào ngày 2 tháng 6. Với việc sàng lọc kháng thể rộng rãi hiện đang được bắt đầu ở nước này, nên có số lượng chính xác hơn về những người bị nhiễm bệnh. Dựa trên dữ liệu của Viện Quốc gia về Các bệnh lây truyền (NICD) từ Nam Phi, tính đến ngày 19 tháng 4, 219 người dưới 20 tuổi bị nhiễm COVID-19 nhưng không có dữ liệu nhập viện của PICU (liên lạc với Tiến sĩ Felicity Gumbo).
Châu Á
Tính đến ngày 17 tháng 4, 82.000 trường hợp nhiễm COVID-19 đã được công nhận ở Trung Quốc. tỉnh thành Vũ Hán đã vắng 50.333 trường hợp với 600 trong số đó là bệnh nhi. 101,102 Chỉ một tỷ lệ nhỏ các trường hợp trẻ nít đề nghị nhập viện PICU. 71 Nhiều bệnh nhân đã phát triển bệnh nguy ngập có bệnh lý tiềm ẩn, ví dụ: bệnh tim bẩm sinh, suy dinh dưỡng. 71 Từ kinh nghiệm ban sơ được trình diễn.# ở Trung Quốc, bệnh nhi cốt yếu liên can đến các nhóm gia đình, và hầu như quờ họ đều có mối liên hệ dịch tễ học với bệnh nhân người lớn. 103
Bên ngoài Trung Quốc, dữ liệu COVID-19 dành cho trẻ em từ Châu Á bị giới hạn tại thời khắc viết các chỉ dẫn này. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, không có trẻ mỏ bị bệnh nặng ở các nước như Nhật Bản và Singapore.
Tại Ấn Độ, trẻ thơ dưới 12 tuổi chiếm khoảng 5,6% (1378 trên 24.586) trong tổng số các trường hợp COVID-19 được báo cáo từ bang Tamil Nadu. Trong một cuộc chắt lọc hạn chế con nít nhập viện bị bệnh hô hấp cấp tính nặng, 0,5% được chẩn đoán mắc COVID-19. 104 Hiếm gặp bệnh nguy khốn mặc dầu một số trường hợp tử vong đã được bẩm ở trẻ nhỏ.
Viện Nghiên cứu và Kiểm soát Dịch bệnh ở Bangladesh ít 102.292 trường hợp COVID-19 được xác nhận ở nước này, với 3% là trẻ thơ dưới 10 tuổi, 7% trẻ thơ từ 11−20 tuổi, và nhóm tuổi này chiếm 2,3% trong tổng số người chết trong cả nước. Không có sẵn dữ liệu về số lần nhập viện. 105
Châu Âu
Tại Tây Ban Nha cho đến nay, trong số 250.287 trường hợp được mỏng, 1399 con trẻ dưới 15 tuổi (0,6%) đã xét nghiệm COVID-19 dương tính và 52 (3,7%) trong số đó yêu cầu nhập viện PICU. 106 Không có trường hợp tử vong ở trẻ con nào xảy ra do trực tiếp thành COVID-19, nhưng ở 3 trẻ bị nhiễm SARS-CoV-2 có thể đã góp phần vào cái chết của chúng (Thông tin từ Hiệp hội coi sóc Chuyên sâu Nhi khoa Tây Ban Nha, SECIP, Cơ quan đăng ký SARS-CoV-2 tính đến ngày 21 tháng 4 năm 2020).
Tại Ý, vào thời điểm nộp bản thảo, trong số 162.004 trường hợp được mỏng, 1,7% là trẻ con từ 0-18 tuổi. Trong số các bệnh nhi, 18,2% dưới 2 tuổi và 65,3% trên 6 tuổi. Chỉ có 6,3% bệnh nhi yêu cầu nhập viện trong trường hợp hiếm gặp PICU nhập viện. 107
Tại Pháp, tính đến ngày 23 tháng 4, 556 bệnh nhi (từ 0–14 tuổi) phải nhập viện, 20 trong số đó phải nhập viện PICU và 11 bệnh nhân mắc các bệnh kèm theo. Cho đến nay, năm trường hợp tử vong (từ 0–19 tuổi) đã được bẩm. 108
Bắc Mỹ
Ở Bắc Mỹ, bảng điều khiển Hệ thống PICU ảo (VPS ) 109 thu thập dữ liệu cho Hoa Kỳ và Canada từ 183 PICU. Tính đến ngày 18 tháng 6, VPS bẩm 653 bệnh nhi dương tính với COVID-19 đã đề nghị nhập viện PICU và có tổng cộng 4192 ngày PICU cần thiết. Tỷ lệ tử vong được thưa là <1%. trong="" số="" những="" bệnh="" nhân="" cần="" nhập="" viện="" picu,="" 15%="" dưới="" 2="" tuổi,="" 27%="" từ="" 2-12="" tuổi="" và="" 37%="" 12-18="" phần="" còn="" lại="" là="" người="" lớn="" được="" nhận="" vào="" picu.="" có="" dữ="" liệu="" khi="" xuất="" viện,="" 45%="" trước="" đây="" trẻ="" em="" khỏe="" mạnh="" không="" mắc="" kèm="" theo.="" vì="" vps="" picus="" tự="" báo="" cáo="" nên="" thể="" điểm="" chính="" xác="" vốn="" đối="" với="" tập="" này.="" mexico="" sẵn.<="p">
Nam Mỹ
hao hao như các khu vực khác trên thế giới, rất khó xác định dữ liệu cụ thể về trẻ nít. Ở Nam Mỹ, Brazil là nhà nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất cho đến nay, tiếp theo là Peru, Chile, Ecuador, Colombia và Argentina. Dữ liệu từ bẩm của Bộ Y tế Brazil, tính đến ngày 27 tháng 4, 27 trường hợp tử vong do COVID-19 ở bệnh nhi (0–19 tuổi). 110 màng lưới nghiên cứu Brazil về săn sóc chuyên sâu cho con trẻ (mạng BRnet-PIC) đã thủ xướng COVID-19 bệnh nhân nghiên cứu và đã ghi danh 37 PICU. Tính đến ngày 27 tháng 5, nghiên cứu này bao gồm 32 trường hợp coi ngó quan trọng cho trẻ mỏ được xác nhận COVID-19 và không có trường hợp tử vong. Dữ liệu từ Bộ Y tế Argentina thưa 2571 bệnh nhi (0–19 tuổi) công nhận COVID-19 và một ca tử vong tính đến ngày 24 tháng 5 năm 1111. Viện Y tế nhà nước ở Colombia (INS - Instituto Nacional de Salud) ít 2790 ca bệnh nhi được xác nhận, 149 bệnh nhân nhập viện, 31 bệnh nhân PICU và 8 trường hợp tử vong tính đến ngày 31 tháng 5. Bộ Y tế Peru báo cáo 4350 bệnh nhi được xác nhận và 18 bệnh nhân tính đến ngày 19 tháng 5 năm 2012
thử nghiệm lâm sàng ở con trẻ
Nhiều thể nghiệm lâm sàng dành cho trẻ con đánh giá COVID-19 ở trẻ thơ đang diễn ra và có thể được xác định tại ClinicalTrials.gov 113 với tiêu chí dạo COVID-19, trẻ mỏ. Trong số 377 thể nghiệm được xác định, 115 thí điểm can thiệp, 256 thể nghiệm quan sát và 43 thí điểm đăng ký. Các nghiên cứu đang được tiến hành ở tất tật các khu vực trên hành tinh; bác sĩ nhi khoa và bác sĩ chuyên khoa chăm sóc trẻ em bị COVID-19 và các di chứng của nó được khuyến khích để xác định các nghiên cứu khu vực và đăng ký để tiếp thu bệnh nhân. Vì đây là một thực thể bệnh phát triển nhanh chóng, việc hiểu rõ nhân khẩu học, thể hiện lâm sàng, phát hiện chẩn đoán, hồ sơ dấu ấn sinh học và các phương pháp điều trị hiệu quả tiềm năng sẽ có lợi cho cộng đồng các viên chức y tế toàn cầu.
Kết luận
Bản thảo này được phát triển để cung cấp các hướng dẫn xử trí bệnh nhi bị bệnh nặng do nhiễm COVID-19 ở cả những môi trường có nguồn lực hạn chế và cao. Chúng tôi cũng luận bàn về dữ liệu nhi khoa sẵn có trong khu vực, có thể được quan tâm đặc biệt do dữ liệu COVID-19 dành cho trẻ con còn hạn chế hiện giờ. SARS-CoV-2 đã có một tác động tàn khốc đối với dân số trưởng thành. trẻ em chiếm một phần nhỏ trong số những người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này. Chúng tôi đề xuất một bộ chỉ dẫn ban sơ để xử trí bệnh nhân nhi mắc bệnh nặng với COVID-19. Các hướng dẫn này dựa trên bằng chứng tốt nhất hiện có, ngoại suy bằng chứng lâm sàng từ người lớn và các phương pháp Thực hành tốt nhất khi thiếu bằng cớ. Khi đại dịch COVID-19 tiến triển, việc thực hành các hướng dẫn được đề xuất sẽ giúp giảm tỷ lệ mắc và tử vong ở bệnh nhi. Việc cập nhật các chỉ dẫn này sẽ là cấp thiết dựa trên dữ liệu bổ sung và chứng cứ mới từ các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra.
Tài liệu tham khảo
Coronavirus COVID-19 global cases by the Center for Systems Science and Engineering (CSSE) at Johns Hopkins University (JHU). https://coronavirus.jhu.edu/map.html (2020).
Dong, Y. et al. Epidemiology of COVID-19 among children in China. Pediatrics 145, 1–10 (2020).
D. C. COVID-19 Response Team et al. Coronavirus disease 2019 in children—United States, February 12–April 2, 2020. MMWR Morb. Mortal. Wkly. Rep. 69, 422–426 (2020).
Ogimi, C. et al. Characteristics and outcomes of coronavirus infection in children: the role of viral factors and an immunocompromised state. J. Pediatr. Infect. Dis. Soc. 8, 21–28 (2019).
Lu, X. et al. SARS-CoV-2 infection in children. N. Engl. J. Med. 382, 1663–1665 (2020).
Morand, A. et al. COVID-19 virus and children: what do we know? Arch. de. Pédiatrie 27, 117–118 (2020).
Balasubramanian, S. et al. Coronavirus disease (COVID-19) in children—what we know so far and what we do not? Indian Pediatr. 57, 435–442 (2020).
Huang, C. et al. Clinical features of patients infected with 2019 novel coronavirus in Wuhan, China. Lancet 395, 497–506 (2020).
Zhou, P. et al. A pneumonia outbreak associated with a new coronavirus of probable bat origin. Nature 579, 270– 273 (2020).
Li, S.-R., Tang, Z.-J., Li, Z.-H. & Liu, X. Searching therapeutic strategy of new coronavirus pneumonia from angiotensin-converting enzyme 2: the target of COVID-19 and SARS-CoV. Eur. J. Clin. Microbiol. Infect. Dis. 39, 1021–1026 (2020).
South, A. M. et al. Controversies of renin-angiotensin system inhibition during the COVID-19 pandemic. Nat. Rev. Nephrol. 395, 1054 (2020).
Patel, S. K., Velkoska, E. & Burrell, L. M. Emerging markers in cardiovascular disease: where does angiotensinconverting enzyme 2 fit in? Clin. Exp. Pharmacol. Physiol. 40, 551–559 (2013).
Guang, C., Phillips, R. D., Jiang, B. & Milani, F. Three key proteases–angiotensin-I-converting enzyme (ACE), ACE2 and renin–within and beyond the renin-angiotensin system. Arch. Cardiovasc. Dis. 105, 373–385 (2012).
Zhu, L., Lu, X. & Chen, L. Possible causes for decreased susceptibility of children to coronavirus. Pediatr. Res. 36, 344 (2020).
Song, R., Preston, G. & Yosypiv, I. V. Ontogeny of angiotensin-converting enzyme 2. Pediatr. Res. 71, 13–19 (2012).
Sampson, A. K., Moritz, K. M. & Denton, K. M. Postnatal ontogeny of angiotensin receptors and ACE2 in male and female rats. Gend. Med. 9, 21–32 (2012).
Bénéteau-Burnat, B. et al. Serum angiotensin-converting enzyme in healthy and sarcoidotic children: comparison with the reference interval for adults. Clin. Chem. 36, 344–346 (1990).
Henry, B. M., Lippi, G. & Plebani, M. Laboratory abnormalities in children with novel coronavirus disease 2019. Clin. Chem. Lab. Med. 0, 415 (2020).
Zhou, Y. et al. Network-based drug repurposing for novel coronavirus 2019-nCoV/SARS-CoV-2. Cell Discov. 6, 1–18 (2020).
Bubenik, G. A. & Konturek, S. J. Melatonin and aging: prospects for human treatment. J. Physiol. Pharmacol. 62, 13–19 (2011).
World Health Organization. Pocket Book for Hospital Care of Children: Guidelines for the Management of Common Illness with Limited Resources (World Health Organization, Geneva, 2013).
Riviello, E. D. et al. Hospital incidence and outcomes of the acute respiratory distress syndrome using the Kigali modification of the Berlin definition. Am. J. Respir. Crit. Care Med. 193, 52–59 (2016).
Cheifetz, I. M. Pediatric ARDS. Respir. Care 62, 718–731 (2017).
World Health Organization. Oxygen Therapy for Children: A Manual for Health Workers (World Health Organization, Geneva). http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/child-oxygen-therapy/en/ (2016).
World Health Organization. Clinical management of severe acute respiratory infection (SARI) when COVID-19 disease is suspected. https://www.who.int/publications-detail/clinical-management-of-severe-acute-respiratoryinfection-when-novel-coronavirus-(ncov)-infection-is-suspected (2020).
Chisti, M. J. et al. Bubble continuous positive airway pressure for children with severe pneumonia and hypoxaemia in Bangladesh: an open, randomised controlled trial. Lancet 386, 1057–1065 (2015).
Ekhaguere, O. A., Mairami, A. B. & Kirpalani, H. Risk and benefits of Bubble Continuous Positive Airway Pressure for neonatal and childhood respiratory diseases in Low- and Middle-Income countries. Paediatr. Respir. Rev. 29, 31–36 (2019).
Wilson, P. T. et al. Continuous positive airway pressure for children with undifferentiated respiratory distress in Ghana: an open-label, cluster, crossover trial. Lancet Glob. Health 5, e615–e623 (2017).
Luo, J. et al. Efficacy of high-flow nasal cannula vs standard oxygen therapy or nasal continuous positive airway pressure in children with respiratory distress: a meta-analysis. J. Pediatrics 215, 199–208.e8 (2019).
Matava, C. T. et al. Pediatric airway management in COVID-19 patients—Consensus Guidelines from the Society for Pediatric Anesthesia’s Pediatric Difficult Intubation Collaborative and the Canadian Pediatric Anesthesia Society. Anesth. Analg. 1, 61–73 (2020).
Hall, D. et al. Videolaryngoscopy increases “mouth-to-mouth” distance compared with direct laryngoscopy. Anaesthesia 120, 173 (2020).
Anesthesia Patient Safety Foundation. Perioperative consideration for the 2019 novel coronavirus (COVID-19). https://www.apsf.org/news-updates/perioperative-considerations-for-the-2019-novel-coronavirus-covid-19/ (2020).
Canelli, R. et al. Barrier enclosure during endotracheal intubation. N. Engl. J. Med. 382, 1957–1958 (2020).
D’Silva, D. F. et al. Extubation of patients with COVID-19. Br. J. Anaesth. 125, e192–e195 (2020).
Rimensberger, P. C., Cheifetz, I. M. & Pediatric Acute Lung Injury Consensus Conference Group. Ventilatory support in children with pediatric acute respiratory distress syndrome: Proceedings from the Pediatric Acute Lung Injury Consensus Conference. Pediatr. Crit. Care Med. 16, S51−S60 (2015).
Santschi, M. et al. Acute lung injury in children: therapeutic practice and feasibility of international clinical trials. Pediatr. Crit. Care Med. 11, 681–689 (2010).
de Jager, P. et al. Tidal volume and mortality in mechanically ventilated children: a systematic review and metaanalysis of observational studies. Crit. Care Med. 42, 2461–2472 (2014).
Imber, D. A., Thomas, N. J. & Yehya, N. Association between tidal volumes adjusted for ideal body weight and outcomes in pediatric acute respiratory distress syndrome. Pediatr. Crit. Care Med. 20, e145–e153 (2019).
Gattinoni, L. et al. Covid-19 does not lead to a “typical” acute respiratory distress syndrome. Am. J. Respir. Crit. Care Med. 201, 1299–1300 (2020).
Guérin, C. et al. Prone positioning in severe acute respiratory distress syndrome. N. Engl. J. Med. 368, 2159–2168 (2013).
Tamburro, R. F., Kneyber, M. C. J. & Pediatric Acute Lung Injury Consensus Conference Group. Pulmonary specific ancillary treatment for pediatric acute respiratory distress syndrome: Proceedings from the Pediatric Acute Lung Injury Consensus Conference. Pediatr. Crit. Care Med. 16, S61−S72 (2015).
Gattinoni, L. et al. COVID-19 pneumonia: different respiratory treatments for different phenotypes? Intensive Care Med. 382, 727 (2020).
de Souza, T. H., Nadal, J. A., Nogueira, R. J., Pereira, R. M. & Brandão, M. B. Clinical manifestations of children with COVID-19: a systematic review. Pediatr. Pulmonol. 1–8 (2020).
Madjid, M., Safavi-Naeini, P., Solomon, S. D., & Vardeny, O. Potential effects of coronaviruses on the cardiovascular system: a review. JAMA Cardiol. https://doi.org/10.1001/jamacardio.2020.1286 (2020).
Inciardi, R. M. et al. Cardiac involvement in a patient with coronavirus disease 2019 (COVID-19). JAMA Cardiol. https://doi.org/10.1001/jamacardio.2020.1096 (2020).
Atri, D. et al. COVID-19 for the cardiologist: a current review of the virology, clinical epidemiology, cardiac and other clinical manifestations and potential therapeutic strategies. JACC Basic Transl. Sci. 5, 518–536 (2020).
Weiss, S. L. et al. Surviving sepsis campaign international guidelines for the management of septic shock and sepsis-associated organ dysfunction in children. Pediatr. Crit. Care Med. 21, e52–e106 (2020).
Inwald, D. P. et al. Restricted fluid bolus volume in early septic shock: results of the Fluids in Shock pilot trial. Arch. Dis. Child 104, 426–431 (2019).
Santhanam, I. et al. A prospective randomized controlled study of two fluid regimens in the initial management of septic shock in the emergency department. Pediatr. Emerg. Care 24, 647–655 (2008).
Sankar, J. et al. Fluid bolus over 15−20 versus 5−10 min each in the first hour of resuscitation in children with septic shock: a randomized controlled trial. Pediatr. Crit. Care Med. 18, e435–e445 (2017).
Maitland, K. et al. Mortality after fluid bolus in African children with severe infection. N. Engl. J. Med. 364, 2483– 2495 (2011).
Schlapbach, L. J. et al. Prediction of pediatric sepsis mortality within 1 h of intensive care admission. Intensive Care Med. 43, 1085–1096 (2017).
Jansen, T. C. et al. Early lactate-guided therapy in intensive care unit patients: a multicenter, open-label, randomized controlled trial. Am. J. Respir. Crit. Care Med. 182, 752–761 (2010).
Lyu, X. et al. [Efficacies of fluid resuscitation as guided by lactate clearance rate and central venous oxygen saturation in patients with septic shock]. Zhonghua Yi Xue Za Zhi 95, 496–500 (2015).
Jones, A. E. et al. Lactate clearance vs central venous oxygen saturation as goals of early sepsis therapy: a randomized clinical trial. JAMA 303, 739–746 (2010).
Zhou, X. et al. Use of stepwise lactate kinetics-oriented hemodynamic therapy could improve the clinical outcomes of patients with sepsis-associated hyperlactatemia. Crit. Care 21, 33 (2017).
Hu, H., Ma, F., Wei, X., & Fang, Y. Coronavirus fulminant myocarditis saved with glucocorticoid and human immunoglobulin. Eur. Heart J. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehaa190 (2020).
Misra, D. P., Agarwal, V., Gasparyan, A. Y. & Zimba, O. Rheumatologists’ perspective on coronavirus disease 19 (COVID-19) and potential therapeutic targets. Clin. Rheumatol. 11, 65 (2020).
Menendez, J. J. et al. Incidence and risk factors of superficial and deep vein thrombosis associated with peripherally inserted central catheters in children. J. Thromb. Haemost. 14, 2158–2168 (2016).
Raffini, L., Huang, Y. S., Witmer, C. & Feudtner, C. Dramatic increase in venous thromboembolism in children’s hospitals in the United States from 2001 to 2007. Pediatrics 124, 1001–1008 (2009).
Ramsi, M. & Al Ali, A. S. Thrombocytopenia-associated multiple-organ failure (TAMOF): recognition and management. BMJ Case Rep. 2018, bcr-2018-225594 (2018).
Nguyen, T. C. et al. Intensive plasma exchange increases a disintegrin and metalloprotease with thrombospondin motifs-13 activity and reverses organ dysfunction in children with thrombocytopenia-associated multiple organ failure. Crit. Care Med. 36, 2878–2887 (2008).
Xie, Y., Wang, X., Yang, P. & Zhang, S. COVID-19 complicated by acute pulmonary embolism. Radiol.: Cardiothorac. Imaging 2, e200067 (2020).
Tang, N., Li, D., Wang, X. & Sun, Z. Abnormal coagulation parameters are associated with poor prognosis in patients with novel coronavirus pneumonia. J. Thromb. Haemost. 18, 844–847 (2020).
Li, T., Lu, H. & Zhang, W. Clinical observation and management of COVID-19 patients. Emerg. Microbes Infect. 9, 687–690 (2020).
Klok, F. A. et al. Incidence of thrombotic complications in critically ill ICU patients with COVID-19. Thromb. Res. 191, 145–147 (2020).
Han, H. et al. Prominent changes in blood coagulation of patients with SARS-CoV-2 infection. Clin. Chem. Lab. Med. 0, 3 (2020).
Wang, D. et al. Clinical characteristics of 138 hospitalized patients with 2019 novel coronavirus-infected pneumonia in Wuhan, China. JAMA 323, 1061 (2020).
Liu, W. et al. Detection of Covid-19 in children in early January 2020 in Wuhan, China. N. Engl. J. Med. 382, 1370–1371 (2020).
Ong, J. S. M. et al. Coronavirus disease 2019 in critically ill children: a narrative review of the literature. Pediatr. Crit. Care Med. 1, 607–619 (2020).
Sun, D. et al. Clinical features of severe pediatric patients with coronavirus disease 2019 in Wuhan: a single center’s observational study. World J. Pediatrics 395, 1–9 (2020).
Liu, P. P., Blet, A., Smyth, D., & Li, H. The science underlying COVID-19: implications for the cardiovascular system. Circulation 142, 68–78 (2020).
Yang, Y. & Tang, H. Aberrant coagulation causes a hyper-inflammatory response in severe influenza pneumonia. Cell. Mol. Immunol. 13, 432–442 (2016).
Yin, S., Huang, M., Li, D. & Tang, N. Difference of coagulation features between severe pneumonia induced by SARS-CoV2 and non-SARS-CoV2. J. Thromb. Thrombolysis 395, 507 (2020).
Tang, N. et al. Anticoagulant treatment is associated with decreased mortality in severe coronavirus disease 2019 patients with coagulopathy. J. Thromb. Haemost. 18, 1094–1099 (2020).
Keith, P. et al. A novel treatment approach to the novel coronavirus: an argument for the use of therapeutic plasma exchange for fulminant COVID-19. Crit. Care 24, 128 (2020).
Hung, I. F. et al. Convalescent plasma treatment reduced mortality in patients with severe pandemic influenza A (H1N1) 2009 virus infection. Clin. Infect. Dis. 52, 447–456 (2011).
Kain, T. et al. Pharmacologic treatments and supportive care for Middle East respiratory syndrome. Emerg. Infect. Dis. 26, 1814 (2020).
Cheng, Y. et al. Use of convalescent plasma therapy in SARS patients in Hong Kong. Eur. J. Clin. Microbiol. Infect. Dis. 24, 44–46 (2005).
Chen, L., Xiong, J., Bao, L. & Shi, Y. Convalescent plasma as a potential therapy for COVID-19. Lancet Infect. Dis. 20, 398–400 (2020).
Martindale, R., Patel, J., Taylor, B., Warren, M. & McClave S. Nutrition therapy in the patient with COVID-19 disease requiring ICU care. https://www.sccm.org/getattachment/Disaster/Nutrition-Therapy-COVID-19-SCCMASPEN.pdf?lang=en-US (2020).
Wang, L. et al. Coronavirus disease 19 infection does not result in acute kidney injury: an analysis of 116 hospitalized patients from Wuhan, China. Am. J. Nephrol. 51, 1–6 (2020).
Alhazzani, W. et al. Surviving sepsis campaign: guidelines on the management of critically ill adults with coronavirus disease 2019 (COVID-19). Crit. Care Med. 1, 1–32 2020.
Edelson, D. P. et al. Interim guidance for basic and advanced life support in adults, children, and neonates with suspected or confirmed COVID-19: From the Emergency Cardiovascular Care Committee and Get With the Guidelines ®-Resuscitation Adult and Pediatric Task Forces of the American Heart Association in Collaboration with the American Academy of Pediatrics, American Association for Respiratory Care, American College of Emergency Physicians, The Society of Critical Care Anesthesiologists, and American Society of Anesthesiologists: Supporting Organizations: American Association of Critical Care Nurses and National EMS Physicians. Circulation 395, 497–18 (2020).
ECRI Institute. Mechanical ventilation of SARS patients: lessons from the 2003 SARS outbreak. Health Devices.
https://www.ecri.org/components/HDJournal/Pages/Mechanical-Ventilation-of-SARS-Patients-2003-SARSOutbreak.aspx?tab=2 (2020).
Mazer, S. P. et al. Reverse CPR: a pilot study of CPR in the prone position. Resuscitation 57, 279–285 (2003).
Bartlett, R. H. et al. Initial ELSO Guidance Document: ECMO for COVID-19 patients with severe cardiopulmonary failure. ASAIO J. 1, 472–474 (2020).
Henry, B. M. & Lippi, G. Poor survival with extracorporeal membrane oxygenation in acute respiratory distress syndrome (ARDS) due to coronavirus disease 2019 (COVID-19): pooled analysis of early reports. J. Crit. Care 58, 27–28 (2020).
Shekar, K. et al. Extracorporeal life support organization COVID-19 interim guidelines. ASAIO J. 1–15 (2020). Online ahead of print.
ELSO. ELSO guidelines for extracorporeal life support. https://www.elso.org/Resources/Guidelines.aspx (2017).
ELSO. ELSO Guidance Document: ECMO for COVID-19 patients with severe cardiopulmonary failure. https://www.elso.org/Portals/0/Files/pdf/ECMO%20for%20COVID%2019%20Guidance%20Document.Final%200 3.24.2020.pdf (2020).
Henry, B. M. COVID-19, ECMO, and lymphopenia: a word of caution. Lancet Respir. Med. 8, e24 (2020).
CDC Health Alert. Multisystem inflammatory syndrome in children (MIS-C) associated with coronavirus disease 2019 (COVID-19). May 14. https://emergency.cdc.gov/han/2020/han00432.asp (2020).
Balasubramanian, S., Nagendran, T. M., Ramachandran, B. & Ramanan, A. V. Hyper-inflammatory syndrome in a child with COVID-19 treated successfully with intravenous immunoglobulin and tocilizumab. Indian Pediatr. 1–5 (2020). Online ahead of print.
Gamez-Gonzalez, L. B. et al. Kawasaki disease shock syndrome: unique and severe subtype of Kawasaki disease. Pediatr. Int. 60, 781–790 (2018).
Riphagen, S. et al. Hyperinflammatory shock in children during COVID-19 pandemic. Lancet 395, 1607–1608 (2020).
Verdoni, L. et al. An outbreak of severe Kawasaki-like disease at the Italian epicentre of the SARS-CoV-2 epidemic: an observational cohort study. Lancet 395, 1771–1778 (2020).
Zhou, F. et al. Clinical course and risk factors for mortality of adult inpatients with COVID-19 in Wuhan, China: a retrospective cohort study. Lancet 395, 1054–1062 (2020).
Coronavirus disease 2019 (COVID-19) treatment guidelines. https://covid19treatmentguidelines.nih.gov/ (2020). 100. Republic of Uganda COVID-19 Response Info Hub. https://covid19.gou.go.ug (2020).
National Health Commission of the People’s Republic of China. Coronavirus disease 2019 (COVID-19) situation reports. http://www.nhc.gov.cn/xcs/yqtb/202004/5b4216ebda6f4d2a884ef6217f32c8fb.shtml (2020).
Pediatrics Branch of Hubei Medical Association. A letter from Pediatrics Branch of Hubei Medical Association to The National Pediatric Colleagues. http://www.hbma.org.cn/qt/cont/news-537.html (2020).
Shen, Q. et al. Novel coronavirus infection in children outside of Wuhan, China. Pediatr. Pulmonol. 323, 707 (2020).
Gupta, N. et al. Severe acute respiratory illness surveillance for coronavirus disease 2019, India. Indian J. Med. Res. 151, 236–240 (2020).
Institute of Epidemiology, Disease Control and Research Bangladesh COVID-19 Update. https://www.iedcr.gov.bd (2020).
Red Nacional de Vigilancia Epidemiológica. Informe Sobre La Situación de COVIE-19 en España 2020.
https://www.isciii.es/QueHacemos/Servicios/VigilanciaSaludPublicaRENAVE/EnfermedadesTransmisibles/Pagina s/InformesCOVID-19.aspx (2020).
EpiCentro. COVID-19 integrated surveillance: key national data. https://www.epicentro.iss.it/en/coronavirus/sarscov-2-integrated-surveillance-data (2020).
Santé publique France. COVID 19 Point Epidemiologique. https://www.santepubliquefrance.fr/recherche/#search=COVID%2019%20%20%20point%20epidemiologique&pub lications=données®ions=National&sort=date (2020).
COVID-19 data: North America Pediatric ICUs. https://covid19.myvps.org/ (2020).
COVID-19 Boletim Epidemiológico Diário, Brasília. https://www.saude.gov.br/images/pdf/2020/April/27/2020-0427-COVID-19-COLETIVA.pdf (2020).
Coronavirus COVD-19 conocé información y recomendaciones del Ministerio de Salud. https://www.argentina.gob.ar/ (2020).
Covid 19 en el Perú—Ministerio del Salud. https://covid19.minsa.gob.pe/index.asp (2020).
NIH U.S. National Library of Medicine ClinicalTrials.gov. https://clinicaltrials.gov/ct2/home (2020).
