Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Hai, 6 tháng 9, 2021

Độ giãn nở tĩnh và áp lực đẩy có liên quan đến tỷ lệ tử vong ICU do COVID-19 ARDS được đặt NKQ

Độ giãn nở tĩnh và sức ép đẩy có liên hệ đến tỷ lệ tử vong ICU do COVID-19 ARDS được đặt nội khí quản

, , , , , , , , , , , , , , , , , ,

Dịch bởi: BS. Đặng Thanh Tuấn – BV Nhi Đồng 1

Tóm tắt

Bối cảnh

Các đặc điểm sinh lý bệnh của Hội chứng suy hô hấp cấp tính can hệ đến bệnh do coronavirus gây ra năm 2019 (COVID-19 ARDS) được chỉ ra là hơi khác so với những đặc điểm được tả trong ARDS không COVID-19, vì hệ thống hô hấp được bảo tồn tương đối tốt mặc dù có giảm oxy máu rõ rệt. Chúng tôi đặt đích xác định xem liệu độ giãn nở tĩnh (Crs) của hệ thống hô hấp, sức ép đẩy (DP) và thể tích khí lưu thông được bình thường hóa cho trọng lượng cơ thể lý tưởng (VT/kg IBW) vào ngày trước hết thở máy có kiểm soát có liên hệ đến tử vong tại đơn vị chăm chút đặc biệt (ICU) hay không trong COVID-19 ARDS.

Phương pháp

Nghiên cứu đoàn hệ đa trọng tâm quan sát. vơ bệnh nhân người lớn dùng COVID-19 liên tiếp được nhận vào 25 ICU thuộc mạng lưới COVID-19 VENETO ICU (28 tháng 2 - 28 tháng 4 năm 2020), được thở máy có kiểm soát, đều được chắt lọc. Chỉ những bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí ARDS và có hồ sơ đầy đủ về Crs, DP và VT/kg IBW trong ngày trước hết thở máy có kiểm soát mới được đưa vào. Crs, DP và VT/kg IBW được thu thập ở bệnh nhân an thần, dùng thuốc giãn cơ và nằm ngửa.

Kết quả

Tổng số 704 bệnh nhân COVID-19 đã được sàng lọc và 241 người đăng ký. 71 bệnh nhân (29%) tử vong trong ICU. phân tích hồi quy logistic cho thấy: (1) Crs không can hệ tuyến tính với tử vong ICU (giá trị p cho độ phi tuyến = 0,01), với nguy cơ tử vong cao hơn đối với giá trị <48 ml="cmH 2 O; (2) mối hệ trọng giữa tử vong DP và ICU là tuyến tính (giá trị p cho độ phi tuyến tính = 0,68), và tăng DP từ 10 đến 14 cmH 2 O gây ra tỷ lệ tử vong trong ICU cao hơn đáng kể (OR 1,45, KTC 95% 1,06–1,99); (3) VT/kg IBW không liên tưởng đến sự gia tăng đáng kể nguy cơ tử vong (OR 0,92, KTC 95% 0,55– 1,52). phân tích đa biến đã xác nhận những phát hiện này.

Kết luận

Crs <48 ml="cmH 2 O hệ trọng đến tỷ lệ tử vong do ICU, trong khi DP can hệ tuyến tính với tỷ lệ tử vong. DP nên được giữ ở mức thấp nhất có thể, ngay cả trong trường hợp Crs được bảo tồn tương đối, bất kể VT/kg IBW, để giảm nguy cơ tử vong.

Bối cảnh

Các đặc điểm sinh lý bệnh của hội chứng suy hô hấp cấp tính can hệ bệnh do coronavirus 2019 (COVID-19) - (COVID-19 ARDS) được chỉ định là hơi khác so với bộc lộ trong ARDS nonCOVID-19, vì độ giãn nở hệ thống hô hấp được bảo tàng tương đối tốt dù rằng giảm oxy máu rõ rệt [1, 2]. Những quan sát sơ bộ này khiến một số tác giả đặt câu hỏi về hiệu quả của thông khí bảo vệ phổi ở bệnh nhân COVID-19 ARDS và cho rằng có thể cho phép giới hạn thể tích ít chém hơn trong khi thở máy cho những bệnh nhân này [2]. Tuy nhiên, các tác giả khác đề xuất rằng thông khí bảo vệ giới hạn thể tích và áp lực cũng nên được ứng dụng trong COVID-19 ARDS [3]. Trong khi bằng chứng mạnh mẽ cho thấy thông khí bảo vệ phổi cải thiện khả năng sống sót ở bệnh nhân ARDS không COVID-19 [4,5,6], dữ liệu vẫn còn thiếu trên bệnh nhân ARDS COVID-19.

Để đánh giá xem liệu thông khí bảo vệ phổi có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong tại đơn vị chăm chút đặc biệt (ICU) cũng ở bệnh nhân COVID-19 ARDS hay không, chúng tôi đã thiết lập một nghiên cứu để rà giả thuyết rằng sự độ giãn nở tĩnh của hệ thống hô hấp (Crs), sức ép đẩy (DP) , và thể tích khí lưu thông được chuẩn hóa cho trọng lượng thân thể lý tưởng (VT/kg IBW) có liên hệ đến tỷ lệ tử vong do ICU.

Phương pháp

Nghiên cứu quan sát đa trọng tâm này được điều phối bởi Bệnh viện Đại học Padua (Ý), và tuân theo chỉ dẫn tuyên bố “Tăng cường ít các nghiên cứu quan sát trong dịch tễ học” cho các nghiên cứu thuần tập quan sát (Tập tin bổ sung 1) [7]. Nghiên cứu đã được ưng chuẩn bởi Ủy ban Đạo đức Thể chế của mỗi trọng điểm tham gia (số tham chiếu phê duyệt của trọng tâm điều phối viên 4853AO20, trong khi danh sách đầy đủ của tất thảy các số tham chiếu thông qua có sẵn trong tệp bổ sung 2) và đã được thông tin đồng ý theo quy định nhà nước. Dữ liệu được thu thập bởi Mạng ICU COVID-19 VENETO, bao gồm 25 ICU [8], và được đưa vào hệ thống thu thập dữ liệu trực tuyến được thiết kế trước (www.covid19veneto.it). Quyền riêng tây của bệnh nhân được bảo vệ bằng cách gán mã bệnh nhân đã được xác định danh tính. chỉ dẫn quản lý bệnh nhân thở máy đã được cung cấp cho tuốt tuột các ICU của mạng lưới khu vực (từ ngày 2 tháng 3 năm 2020) [8].

Chúng tôi bao gồm vơ bệnh nhân người lớn liên tục bị nhiễm SARS-CoV-2 và đáp ứng các tiêu chí ARDS [1], nhập viện từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 28 tháng 4 năm 2020, được thở máy có kiểm soát (CMV) và có Crs, DP và VT/kg IBW được đo ở phong thái nằm ngửa, sau khi an thần và dùng thuốc giãn cơ, trong vòng 24 giờ trước tiên của CMV. Chúng tôi đã loại trừ những bệnh nhân có hồ sơ không đầy đủ và những người đã được định vị trước khi thu thập dữ liệu. Chẩn đoán COVID-19 được thực hành theo hướng dẫn lâm thời của WHO.

Các biến sau được thu thập: (1) dữ liệu nhân khẩu học (tuổi, giới tính, chỉ số khối thân thể); (2) Chỉ số bệnh đi kèm Charlson không được điều chỉnh theo tuổi; (3) điểm đánh giá suy cơ quan tuần tự (SOFA) khi nhập viện ICU; (4) bàn thảo khí trong vòng 24 giờ đầu tiên của CMV [pH, áp suất riêng phần động mạch của oxy (PaO 2 ), áp suất riêng phần động mạch của carbon dioxide (PaCO 2 )]; (5) cài đặt máy thở [VT/kg IBW, tần số hô hấp, áp lực dương cuối thở ra (PEEP), nồng độ oxy hít vào (FiO 2 )]; (6) áp suất bình nguyên, DP, Crs; và (7) Tỷ lệ tử vong của ICU.

Cài đặt máy thở, áp lực bình nguyên, DP và Crs được thu thập trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi đặt nội khí quản ở phong thái nằm ngửa trên cơ sở đánh giá của bác sĩ săn sóc tích cực. Các phép đo được thực hiện ở những bệnh nhân được an thần và dùng thuốc giãn cơ, không có hoạt động thở tự phát. Bệnh nhân được thở máy ở chế độ kiểm soát thể tích. Áp suất cao nguyên và tổng PEEP được đo tại điểm lưu lượng bằng không trong thời gian ngừng thở cuối kỳ hít vào và cuối kỳ thở ra [5, 6]. DP được tính bằng hiệu số giữa áp suất bình nguyên và PEEP tổng, trong khi Crs được tính là VT/DP [5, 6]. Trong trường hợp xác định nhiều lần, thầy thuốc lâm sàng đảm trách bệnh nhân sẽ xác định giao hội các biến tiêu biểu nhất để đưa vào phân tích [14].

Trước khi phân tích dữ liệu, hai nhà điều tra độc lập và một nhà thống kê đã chắt lọc cơ sở dữ liệu để tìm lỗi đối với các khuôn khổ tiêu chuẩn hóa và can dự với các nhà điều tra địa phương nếu có bất kỳ thắc mắc nào. Dữ liệu đã được xác thực sau đó được nhập vào cơ sở dữ liệu chung cục. Bệnh nhân được chuyển từ ICU này sang ICU khác được coi là một trường hợp đơn lẻ, trong khi đối với những bệnh nhân được chuyển đến ICU sau khi xuất viện, chỉ có dữ liệu từ lần nhập viện đầu tiên được xem xét.

phân tách thống kê

Dữ liệu phân loại được biểu thị dưới dạng số tuyệt đối (n) và tỷ lệ phần trăm (%). Đối với dữ liệu liên tục, tính chuẩn đã được thẩm tra bằng các bài kiểm tra Skewness và Kurtosis. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn được dùng cho các biến phân phối chuẩn, trong khi giá trị nhàng nhàng và phạm vi liên phần phân vị được sử dụng cho các biến không phân phối chuẩn. Không có tác động nào đối với dữ liệu bị thiếu đã được lên kế hoạch. Mô hình hồi quy logistic đã được ước tính để đánh giá mối liên tưởng giữa tử vong ICU và Crs, DP, VT/kg IBW, PEEP tổng và áp lực bình nguyên. Nếu liên kết là phi tuyến tính, các spline khối hạn chế đã được dùng để ước tính các mô hình và điểm thay đổi đã được xác định.

Ngoài ra, các mô hình hồi quy logistic đa biến đã được sử dụng để đánh giá mối liên tưởng giữa Crs và DP và tỷ lệ tử vong ICU sau khi điều chỉnh các nhân tố gây nhiễu hệ trọng. Trong mỗi mô hình, các yếu tố dự báo độc lập đã được xác định phê duyệt cách tiếp cận hồi quy từng bước. Cách tiếp cận này phối hợp các phương pháp chọn lọc tiến và lùi trong một quy trình lặp lại (với mức ý nghĩa 0,05 cho cả mục nhập và duy trì) để chọn các nguyên tố dự báo trong mô hình đa biến chung cục [9]. Các biến độc lập được dùng trong phương pháp tiếp cận từng bước là tuổi, giới tính, chỉ số khối thân thể, điểm SOFA khi nhập viện ICU, chỉ số bệnh đi kèm Charlson, pH, PaO 2 /FiO 2 , PaCO 2 , cài đặt máy thở (VT/kg IBW, tần số hô hấp, tổng PEEP) và bình nguyên áp lực vào ngày trước tiên của CMV. Ngoài ra, tính cộng tuyến đã được xác định cho giá trị GVIF (1/(2 × Df)) lớn hơn 2 [9, 10]. Các biến có đa cộng tuyến đã bị loại bỏ khỏi mô hình (Tập tin bổ sung 3). Hai mô hình hồi quy logistic đa biến khác nhau, một cho Crs (mô hình 1) và một cho DP (mô hình 2), đã được tạo ra.

tuốt luốt các phép thử thống kê đều có 2 phía và ý nghĩa thống kê được xác định là p <0,05. tất="" cả="" các="" phân="" tích="" đã="" được="" thực="" hiện="" bằng="" r="" phiên="" bản="" 4.0.3="" (r="" nền="" tảng="" cho="" máy="" tính="" thống="" kê,="" vienna,="" áo).<="p">

Kết quả

Trong thời kì nghiên cứu, tổng số 704 bệnh nhân ARDS COVID-19 liên tục từ 25 ICU đã được đưa vào cơ sở dữ liệu. Sau khi loại trừ 463 bệnh nhân không nhận CMV hoặc không đáp ứng các tiêu chí ARDS [1] hoặc không có hồ sơ đầy đủ ở phong thái nằm ngửa, 241 bệnh hồn hậu 21 ICU được coi là đủ điều kiện để phân tích dữ liệu (Hình 1).

Hình 1 Biểu đồ bệnh nhân đăng ký.

Đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng của dân số nghiên cứu được dùng thuốc giãn cơ trong Bảng 1.

Vào ngày trước hết của CMV, Crs làng nhàng là 48 (39–60) ml/cmH 2 O, DP 11 (9–13) cmH 2 O và VT/kg IBW 7,8 [6,9–8,8) ml/kg. 71 bệnh nhân (29%) tử vong trong ICU.

Phân tích hồi quy logistic cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa Crs và ICU tử vong (giá trị p cho độ phi tuyến = 0,01), với nguy cơ tử vong cao hơn đáng kể đối với các giá trị dưới 48 ml/cmH 2 O (Hình 2A).

Ngược lại, một mối quan hệ tuyến tính giữa tỷ lệ tử vong DP và ICU (giá trị p cho độ phi tuyến = 0,68) đã được quan sát. Sự gia tăng DP từ 10 đến 14 cmH 2 O liên quan đến sự gia tăng 45% nguy cơ tử vong do ICU (OR 1,45, KTC 95% 1,06–1,99) (Hình 2B). Ngoài ra, một mối quan hệ tuyến tính cũng được xác nhận giữa tỷ lệ tử vong ICU và cả PEEP tổng và áp suất bình nguyên (giá trị p cho độ phi tuyến = 0,22 cả hai) (Tập tin bổ sung 4A, B).

VT/kg IBW không liên quan đến tử vong do ICU. Tăng VT/kg IBW từ 6 đến 8 ml/kg hoặc từ 8 đến 10 ml/kg không làm tăng nguy cơ tử vong (OR 0,92, KTC 95% 0,55–1,52, cho cả hai phạm vi) (Hình 2C).

Phân tích đa biến xác nhận Crs và DP là các yếu tố nguy cơ độc lập đối với tử vong do ICU (OR 0,98, KTC 95% 0,96–1,00, p = 0,03 và OR 1,12, KTC 95% 1,00–1,24, p = 0,04, tương ứng) (Bảng 2).

Bảng 1 Đặc điểm lâm sàng, các thông số hô hấp và kết quả của dân số nghiên cứu

Hình 2 Các đường liền nét biểu thị tỷ lệ cược log của tỷ lệ tử vong ICU, trong khi các vùng màu xám khoảng tin cậy 95%.

A. Mối liên quan giữa độ giãn nở tĩnh của hệ thống hô hấp và tỷ lệ tử vong tại đơn vị chăm sóc đặc biệt. Giá trị p cho tính phi tuyến là 0,01. Ảnh hưởng phi tuyến của độ giãn nở tĩnh của hệ thống hô hấp đối với nguy cơ tử vong tại đơn vị chăm sóc đặc biệt được mô hình hóa bằng cách sử dụng các splines khối hạn chế. Tỷ lệ chênh lệch được trình bày cho các phạm vi liên phần tư của dân số nghiên cứu.

B. Mối liên quan giữa áp lực đẩy và tỷ lệ tử vong tại đơn vị chăm sóc đặc biệt. Vì giá trị p cho tính phi tuyến là 0,68 nên tính phi tuyến tính không được triển khai trong mô hình. Tỷ lệ chênh lệch được trình bày cho phạm vi giá trị có liên quan về mặt lâm sàng, theo dữ liệu được công bố [5, 6].

C. Mối can hệ giữa thể tích khí lưu thông và tỷ lệ tử vong tại đơn vị chăm nom đặc biệt. Vì giá trị p cho tính phi tuyến là 0,20 nên tính phi tuyến tính không được khai triển trong mô hình. Tỷ lệ chênh lệch được miêu tả cho phạm vi giá trị có hệ trọng về mặt lâm sàng, theo dữ liệu tài liệu [ 2, 4 ]. ICU: Đơn vị coi ngó đặc biệt, Crs: độ giãn nở tĩnh của hệ thống hô hấp, DP: sức ép đẩy, VT: thể tích khí lưu thông, IBW: trọng lượng thân thể lý tưởng, OR: tỷ lệ chênh, CI 95%: Khoảng tin 95%

Bảng 2 Các mô hình đa biến về mối liên hệ giữa tử vong ICU và độ giãn nở tĩnh của hệ hô hấp (mô hình 1) và áp lực đẩy (mô hình 2) vào ngày trước hết thở máy có kiểm soát xâm lấn

bàn thảo

Chúng tôi nhận thấy rằng ở bệnh nhân ARDS COVID-19 (1) Crs có mối quan hệ phi tuyến tính với tỷ lệ tử vong do ICU, với nguy cơ tử vong cao hơn đối với các giá trị dưới 48 ml/cmH 2 O; (2) DP hệ trọng đến tỷ lệ tử vong ICU, tăng tuyến tính với mức tăng DP; (3) VT/kg IBW không phải là một nguyên tố nguy cơ đáng kể của tử vong do ICU.

Ở những bệnh nhân ARDS không có COVID-19, Crs không dự đoán được kết cục lâm sàng, dù rằng có liên can đến kích tấc phổi chức năng và mức độ nghiêm trọng của hội chứng [5, 11]. Tuy nhiên, phân tách thứ cấp của nghiên cứu LUNG SAFE đã chỉ ra rằng giá trị Crs thấp hơn, được ghi lại vào ngày trước tiên của ARDS, có liên quan độc lập với tỷ lệ tử vong, mặc dầu mối quan hệ Crs-tỷ lệ tử vong thiếu điểm chuyển tiếp rõ ràng và không có điểm giới hạn hữu ích nào có thể được thiết lập [9].

chừng độ Crs rộng đã được báo cáo ở bệnh nhân ARDS COVID-19 [2, 12, 13], nhưng mối quan hệ giữa Crs và tỷ lệ tử vong vẫn chưa kiên cố [14, 15]. Grasselli và cộng sự phát hiện ra rằng, trong số những bệnh nhân có COVID-19 ARDS, những người có Crs 'thấp' trong vòng 24 giờ kể từ khi nhập viện ICU, có can dự đến nồng độ D-dimer 'cao', có tỷ lệ tử vong trong 28 ngày cao hơn đáng kể [14]. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã chẳng thể công nhận những kết quả này [13, 15].

Chúng tôi nhận thấy Crs có tương quan phi tuyến tính với tỷ lệ tử vong do ICU, chỉ có mối liên can đáng kể đối với giá trị Crs dưới 48 ml/cmH 2 O. Mối quan hệ phi tuyến tính này, đã được mỏng ở bệnh nhân ARDS không phải COVID-19 [9], có thể phụ thuộc vào sự không đồng nhất về kiểu hình có liên tưởng về mặt lâm sàng [2, 3, 16, 17], và có thể giải thích kết quả không nhất quán của các cuộc điều tra trước đó thẩm tra mối liên can giữa các Crs và tỷ lệ tử vong bằng cách sử dụng phương pháp thống kê tuyến tính [13,14,15].

DP đã được nghiên cứu rộng rãi ở những bệnh nhân ARDS không dùngCOVID-19 và có can dự đến kết quả lâm sàng kém [5, 6]. Thật vậy, trong một nghiên cứu quan sát post-hoc bao gồm 3562 bệnh nhân ARDS, DP được chứng minh là biến số phân tầng nguy cơ tử vong trong 60 ngày tốt nhất, bất kể PEEP, áp lực bình nguyên và VT/kg IBW [5]. Hơn nữa, nghiên cứu LUNG SAFE, tiếp thụ 2377 bệnh nhân ARDS được đặt nội khí quản, cho thấy Dp 14 cmH 2 O vào ngày đầu tiên của CMV là một nguyên tố nguy cơ của tỷ lệ sống sót trong bệnh viện kém [6]. Đối với những bệnh nhân không có ARDS, ảnh hưởng của DP trên kết quả lâm sàng vẫn còn gây tranh biện [18,19,20], mặc dầu một phân tách tổng hợp bao gồm 2250 bệnh nhân cho thấy rằng DP cao khi gây mê toàn thân có can hệ đến nhiều biến chứng phổi sau giải phẫu hơn [21]. Ở bệnh nhân ARDS COVID-19, một số nghiên cứu thuần tập bẩm giá trị DP khá gần với giá trị DP của bệnh nhân ARDS không COVID-19 [12, 22], dù rằng vai trò dự đoán của DP đối với tử vong vẫn chưa rõ ràng [13].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, FiO 2 và PEEP được thiết lập theo bảng PEEP/FiO 2 thấp hơn [23]. Cần lưu ý rằng cài đặt PEEP được ứng dụng theo một tài liệu chính thức do chính quyền khu vực phát hành và được tạo ra bởi sự đồng thuận giữa các thầy thuốc lâm sàng của mạng ICU, do đó cung cấp tính nhất quán và đồng nhất cho dữ liệu được dùng cho phân tích của chúng tôi.

Theo hiểu biết tốt nhất của chúng tôi, nghiên cứu hiện tại là nghiên cứu đầu tiên tìm thấy mối can dự đáng kể giữa DP và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân ARDS COVID-19 điều trị CMV. Mối quan hệ tuyến tính này cho thấy rằng cần phải cố kỉnh hết sức để giảm DP càng nhiều càng tốt, ở những bệnh nhân có giá trị Crs tương đối được bảo tồn. Nếu, một mặt, điều này khá dễ thực hành khi Crs được bảo toàn tương đối, mặt khác, khi Crs thấp, việc loại bỏ CO 2 ngoài cơ thể có thể là cấp thiết để đạt được đích này. Điều xăm là ảnh hưởng của DP lên tỷ lệ tử vong do ICU nghe đâu độc lập với VT/kg IBW, mà sự gia tăng trên giá trị ngưỡng truyền thống [4] không ảnh hưởng đến kết cuộc của bệnh nhân. Các kết quả na ná gần đây đã được vắng ở những bệnh nhân ARDS không có COVID-19 bằng một phân tách thứ cấp hậu kỳ của 5 thí nghiệm ngẫu nhiên, bao gồm 1096 bệnh nhân ARDS cổ điển, cho thấy lợi. của thể tích khí lưu thông thấp hơn (4–8 ml/kg IBW) trên tỷ lệ tử vong trong 60 ngày có liên quan đến độ đàn hồi của hệ thống hô hấp, cho thấy rằng các chiến lược thông khí bảo vệ phổi chính yếu nên nhắm vào sức ép đẩy hơn là thể tích khí lưu thông [24].

Nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế. trước hết, giống như đa số các nghiên cứu được ban bố trong đại dịch COVID-19, đây là một nghiên cứu quan sát, chịu các giới hạn của thiết kế này. Thứ hai, chúng tôi đo Crs và DP, bao gồm các đặc tính cơ học của thành ngực, ngoài các đặc tính của phổi. Tuy nhiên, đáng nói là một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy các thông số hô hấp phức tạp hơn không bổ sung thêm thông tin quan trọng về nguy cơ tử vong so với DP [25]. Thứ ba, phát hiện của chúng tôi chỉ tập kết vào các biến hô hấp được thu thập trong ngày trước hết của CMV, trong khi các phép đo tiếp theo trong thời kì ở ICU không được coi xét. dù rằng phương pháp này đã được dùng bởi một số bài báo đã xuất bản [6, 9, 14], nhưng nó không khám phá được vai trò của quá trình diễn tiến lâm sàng sau ngày đầu tiên. Hơn nữa, sai lệch về thời gian dẫn đầu dưới dạng khoảng thời gian mà bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí ARDS [1] hoặc có ARDS trước khi đánh giá vào ngày trước nhất của CMV vẫn là một nhân tố gây nhiễu chẳng thể đo lường được [9]. Thứ tư, mặc dầu các hướng dẫn khu vực đề xuất các thiết lập thông khí tiêu chuẩn đã được chấp nhận chung [8], chúng tôi chẳng thể loại trừ vững chắc rằng một số méo mó so với các chỉ định đã xảy ra. rút cuộc, một số bệnh nhân bị loại vì hồ sơ không đầy đủ, điều này phụ thuộc vào khối lượng công việc quá lớn của các thầy thuốc ICU trong đại dịch COVID-19 khiến cho việc ghi dữ liệu có vấn đề, đặc biệt là ở các bệnh viện không có trong chương trình nội trú.

Kết luận

Ở bệnh nhân ARDS COVID-19 điều trị CMV, tử vong do ICU hệ trọng đến Crs <48 ml="cmH 2 O và liên tưởng tuyến tính với DP. Kết quả của chúng tôi cho thấy DP nên được giữ ở mức thấp nhất có thể, bất kể VT/kg IBW, để giảm nguy cơ tử vong.

References

Ranieri VM, Rubenfeld GD, Thompson BT, Ferguson ND, Caldwell E, Fan E, ARDS Definition Task Force, et al. Acute respiratory distress syndrome: the Berlin Definition. JAMA. 2012;307(23):2526–33.

Gattinoni L, Chiumello D, Caironi P, Busana M, Romitti F, Brazzi L, et al. COVID-19 pneumonia: different respiratory treatments for different phenotypes? Intensive Care Med. 2020;46(6):1099–102.

Fan E, Beitler JR, Brochard L, Calfee CS, Ferguson ND, Slutsky AS, et al. COVID-19-associated acute respiratory distress syndrome: Is a different approach to management warranted? Lancet Respir Med. 2020;8(8):816–21.

Brower RG, Matthay MA, Morris A, Schoenfeld D, Thompson BT, Wheeler A. Ventilation with lower tidal volumes as compared with traditional tidal volumes for acute lung injury and the acute respiratory distress syndrome. N Engl J Med. 2000;342(18):1301–8.

Amato MB, Meade MO, Slutsky AS, Brochard L, Costa EL, Schoenfeld DA, et al. Driving pressure and survival in the acute respiratory distress syndrome. N Engl J Med. 2015;372(8):747–55.

Bellani G, Laffey JG, Pham T, Fan E, Brochard L, Esteban A, LUNG SAFE Investigators; ESICM Trials Group, et al. Epidemiology, patterns of care, and mortality for patients with acute respiratory distress syndrome in intensive care units in 50 countries. JAMA. 2016;315(8):788–800.

von Elm E, Altman DG, Egger M, Pocock SJ, Gøtzsche PC, Vandenbroucke JP, STROBE Initiative. The Strengthening the Reporting of Observational Studies in Epidemiology (STROBE) statement: guidelines for reporting observational studies. Epidemiology. 2007;18(6):800–4.

Pasin L, Sella N, Correale C, Boscolo A, Rosi P, Saia M, et al. Regional COVID-19 network for coordination of SARS-CoV-2 outbreak in Veneto, Italy. J Cardiothorac Vasc Anesth. 2020;34(9):2341–5.

Panwar R, Madotto F, Laffey JG, van Haren FMP. Compliance phenotypes in early acute respiratory distress syndrome before the COVID-19 pandemic. Am J Respir Crit Care Med. 2020;202(9):1244–52.

Fox J, Monette G. Generalized collinearity diagnostics. Am Stat Assoc. 1992;87:178–83.

Henderson WR, Chen L, Amato MBP, Brochard LJ. Fifty years of research in ARDS. Respiratory mechanics in acute respiratory distress syndrome. Am J Respir Crit Care Med. 2017;196(7):822–33.

Ferrando C, Suarez-Sipmann F, Mellado-Artigas R, Hernández M, Gea A, Arruti E, COVID-19 Spanish ICU Network, et al. Clinical features, ventilatory management, and outcome of ARDS caused by COVID-19 are similar to other causes of ARDS. Intensive Care Med. 2020;46(12):2200–11.

Botta M, Tsonas AM, Pillay J, Boers LS, Algera AG, Bos LDJ, PRoVENT-COVID Collaborative Group, et al. Ventilation management and clinical outcomes in invasively ventilated patients with COVID-19 (PRoVENTCOVID): a national, multicentre, observational cohort study. Lancet Respir Med. 2021;9(2):139–48.

Grasselli G, Tonetti T, Protti A, Langer T, Girardis M, Bellani G, et al. Pathophysiology of COVID-19-associated acute respiratory distress syndrome: a multicentre prospective observational study. Lancet Respir Med. 2020;8(12):1201–8.

Vandenbunder B, Ehrmann S, Piagnerelli M, Sauneuf B, Serck N, Soumagne T, COVADIS study group, et al. Static compliance of the respiratory system in COVID-19 related ARDS: an international multicenter study. Crit Care. 2021;25(1):52.

Calabrese F, Pezzuto F, Fortarezza F, Boscolo A, Lunardi F, Giraudo C, et al. Machine learning-based analysis of alveolar and vascular injury in SARS-CoV-2 acute respiratory failure. J Pathol. 2021. https://doi.org/10.1002/path.5653.

Gattinoni L, Coppola S, Cressoni M, Busana M, Rossi S, Chiumello D. COVID-19 does not lead to a “typical” acute respiratory distress syndrome. Am J Respir Crit Care Med. 2020;201(10):1299–300.

Lanspa MJ, Peltan ID, Jacobs JR, Sorensen JS, Carpenter L, Ferraro JP, et al. Driving pressure is not associated with mortality in mechanically ventilated patients without ARDS. Crit Care. 2019;23(1):424.

Simonis FD, Barbas CSV, Artigas-Raventós A, Canet J, Determann RM, Anstey J, PRoVENT investigators; PROVE Network investigators, et al. Potentially modifiable respiratory variables contributing to outcome in ICU patients without ARDS: a secondary analysis of PRoVENT. Ann Intensive Care. 2018;8(1):39.

Huang H, He H. Why driving pressure is not associated with the mortality in non-ARDS patients? Crit Care. 2020;24(1):147.

Neto AS, Hemmes SN, Barbas CS, Beiderlinden M, Fernandez-Bustamante A, Futier E, PROVE Network Investigators, et al. Association between driving pressure and development of postoperative pulmonary complications in patients undergoing mechanical ventilation for general anaesthesia: a meta-analysis of individual patient data. Lancet Respir Med. 2016;4(4):272–80.

Grieco DL, Bongiovanni F, Chen L, Menga LS, Cutuli SL, Pintaudi G, et al. Respiratory physiology of COVID-19 induced respiratory failure compared to ARDS of other etiologies. Crit Care. 2020;24(1):529.

Brower RG, Lanken PN, MacIntyre N, Matthay MA, Morris A, Ancukiewicz M, et al. Higher versus lower positive end-expiratory pressures in patients with the acute respiratory distress syndrome. N Engl J Med. 2004;351(4):327–36.

Goligher EC, Costa ELV, Yarnell CJ, Brochard LJ, Stewart TE, Tomlinson G, et al. Effect of lowering tidal volume on mortality in ards varies with respiratory system elastance. Am J Respir Crit Care Med. 2021. https://doi.org/10.1164/rccm.202009-3536OC.

Dianti J, Matelski J, Tisminetzky M, Walkey AJ, Munshi L, Del Sorbo L, et al. Comparing the effects of tidal volume, driving pressure, and mechanical power on mortality in trials of lung-protective mechanical ventilation. Respir Care. 2021;66(2):221–7.

Artikel Terkait

Back To Top