Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 5 tháng 9, 2021

ĐIỀU TRỊ HUYẾT ÁP THẤP BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN

ĐIỀU TRỊ huyết áp THẤP BẰNG y khoa cổ truyền

ĐẠI CƯƠNG

y khoa hiện đại

Khái niệm

Bệnh huyết áp thấp biểu lộ lâm sàng cốt yếu là chỉ số huyết áp động mạch cánh tay thấp hơn 90/60mmHg (12/8kPa) theo phương pháp đo huyết áp thường quy ở người trưởng thành, người già trên 65 tuổi thấy chỉ số thấp hơn 100/60mmHg (13,3/8kPa).

Phân loại

Trên lâm sàng, áp huyết thấp phân thành ba loại là huyết áp thấp nguyên phát, huyết áp thấp tư thế và huyết áp thấp thứ phát.

áp huyết thấp nguyên phát thường gặp ở lứa tuổi 20 - 40, phụ nữ cơ thể hư nhược, có thể không thấy biểu thị triệu chứng hoặc thấy đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, hay quên, mỏi mệt, tức ngực; ngoài việc đo thấy áp huyết thấp ra thì không phát hiện các bệnh khác hoặc do ăn uống kém.

áp huyết thấp do phong độ can dự đến thay đổi tư thế đang nằm, ngồi đột ngột đứng lên hoặc do phong độ đứng kéo dài làm cho áp huyết tâm thu hạ hơn 20mmHg (2,67kPa), áp huyết tâm trương hạ hơn 10mmHg (1,33kPa).

áp huyết thấp triệu chứng là triệu chứng giảm huyết áp của một số bệnh gây nên, thường gặp như bệnh tim mạch, bệnh nội tiết, bệnh kinh niên gây mất máu, mất nước và điện giải...

Chẩn đoán

áp huyết thấp khi đo bằng phương pháp thường nhật thấy sức ép ở động mạch cánh tay người trưởng thành có chỉ số dưới 90/60mmHg (12/8kPa), người già trên 65 tuổi có chỉ số huyết áp dưới 100/60mmHg (13,5/8kPa).

huyết áp thấp nguyên phát

Có thể một số trường hợp không có mô tả triệu chứng.

Một số trường hợp thấy: đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, hay quên, mệt mỏi, tức ngực.

Các xét nghiệm cận lâm sàng loại trừ bệnh lý thực thể, tác dụng của thuốc...

huyết áp thấp tư thế

Do bệnh nhân nằm, ngồi và đứng lên đột ngột hoặc do bệnh nhân phải đứng lâu thì đo chỉ số áp huyết tâm thu giảm dưới 20mmHg (2,67kPa), huyết áp tâm trương giảm dưới 10mmHg (1,33kPa).

huyết áp thấp phong thái có thể liên tưởng đến rối loạn tâm thần thực vật, rối loạn chức năng co giãn mạch, bệnh nội tiết, dùng thuốc giãn mạch…

áp huyết thấp triệu chứng

áp huyết thấp triệu chứng là hậu quả của một số bệnh tật gây nên như bệnh tim mạch, nội tiết, bệnh gây mất máu, mất nước điện giải…

ý kiến của y khoa cựu truyền

Khái niệm

Y học cổ truyền xếp các triệu chứng của bệnh áp huyết thấp thuộc phạm trù huyễn vựng, quyết chứng, hư lao.

nguyên cớ bệnh sinh

triết lí huyết khí:

Chứng bệnh này thường xuất hiện khi rối loạn sau mắc bệnh làm tạng phủ hao tổn hoặc do bẩm tố bất túc. Trên cơ sở đó lại lao động quá sức gây nội thương, hay do hư lâu ngày không bình phục làm cho nguyên bạch đái nhược gây nên bệnh.

Bẩm tố suy nhược, hình khí bất túc, hậu thiên không được nuôi dưỡng đầy đủ làm cho khí huyết suy yếu. bạch đái thì dương nhược, khi hư thì âm hao, khí cơ thăng giáng bất thường làm cho thanh dương không thăng. Âm huyết bất túc làm huyết không chan chứa lòng mạch, khí hao tinh thiếu làm huyết quản không đi nuôi dưỡng được toàn thân, tâm khảm không được dinh dưỡng đầy đủ gây nên các chứng trên.

Ẩm thực không điều độ, lao động quá sức, thích ăn uống thiên lệch, uống rượu vô độ đều gây thương tổn tâm tỳ. Tỳ vị rối loạn chức năng làm mất nguồn hóa sinh huyết dịch, nhiệt huyết hao tổn làm huyết không đi nuôi dưỡng được toàn thân, khí huyết hao phí làm tâm tưởng không được nuôi dưỡng gây nên chứng bệnh này.

Mắc bệnh nặng, bệnh lâu ngày làm tích lao thành tật hoặc do tuổi già sức yếu, tinh khí đều hư hoặc do tác dụng phụ của thuốc hoặc do huyết khí âm dương của tạng phủ rối loạn gây nên chứng bệnh trên.

triết lí tạng phủ:

Tâm chủ huyết quản, phế chủ khí. Huyết muốn vận hành trong lòng mạch phải dựa vào sự thúc đẩy của tâm khí. Tâm phế bạch đái hoặc tâm dương bất túc làm dương khí không đầy đủ, không đưa lên trên để ôn dưỡng vùng đầu mặt, không nuôi dưỡng được tứ chi nên xuất hiện chứng đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, tuỳ thuộc lạnh.

Tỳ chủ vận hóa và là nguồn hóa sinh khí huyết, chủ thăng thanh dương và giáng trọc âm. Tỳ vị hư tổn, trung khí bất túc làm ảnh hưởng đến nguồn hóa sinh gây thương tổn doanh vệ khí huyết. Tỳ chủ thăng thanh làm huyết khí thanh dương không đưa được lên trên làm rối loạn nuôi dưỡng của não gây chóng mặt. Doanh huyết bất túc làm vệ khí bất cố nên dễ gây ra mồ hôi.

Thận là tiên thiên chi bản, chủ tàng tinh sinh tủy, là gốc của nguyên âm nguyên dương. Thận âm bất túc hoặc tuổi cao sức yếu đều có thể gây nên thận tinh hao hư, tủy hải bất túc, não không được nuôi dưỡng đầy đủ gây nên các chứng chóng mặt, đau đầu.

Tóm lại, chứng bệnh này là do huyết khí âm dương hư tổn, trong đó dương khí hao hư là chính. Chứng bệnh này thuộc hư chứng, cũng có khi hư trung hiệp thực, kiêm thêm đàm ứ; bệnh phát nặng thêm khi đói, cần lao quá sức, đổi thay tư thế đột ngột. Vị trí bệnh tại tâm, tỳ, thận.

BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ

Biện chứng

Biện chứng về áp huyết thấp đốn liên can đến rối loạn chức năng của các tạng tâm, tỳ, thận, khí và huyết, âm và dương với các diễn đạt lâm sàng khác nhau. Tùy theo việc quý trọng căn nguyên bệnh sinh mà có các nguyên tắc điều trị ứng.

Vì vậy, khi điều trị người thầy thuốc nên căn cứ vào tình trạng hư tổn của tạng phủ, rối loạn của khí huyết và âm dương để linh hoạt ứng dụng các pháp điều trị, không nên cố định vào một pháp nào.

Nguyên tắc điều trị

Nếu quá trình phát bệnh huyết áp thấp hệ trọng đến tạng tâm là chính thì pháp điều trị thường là kiện tỳ ích khí, ôn thông tâm dương, giao thông tâm thận, tư âm phục mạch, ích thận trấn tinh, bồi dưỡng chân âm, ôn bổ tâm thận, hóa đàm thông mạch.

Nếu nhấn mạnh mối quan hệ của khí với bệnh áp huyết thấp thì thường áp dụng pháp cố khí, bổ khí, hành khí, sơ khí hóa thấp.

Có môn phái phân huyết áp thấp thành thời kỳ cấp tính và thời kỳ hoãn giải. Đối với thời kỳ cấp tính thì dùng các pháp điều trị là bổ khí hồi dương cố thoát, thanh nhiệt giải độc sinh mạch; thời kỳ hoãn giải thì dùng các pháp điều trị là kiện tỳ ích khí thăng đề, dưỡng tâm sinh huyết vinh não, tư thận trấn tinh sinh mạch, bổ thận tráng dương ích não.

PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ

Thời kỳ cấp tính

nguyên do bệnh sinh của thời kỳ này là do dương bạch đái, phối hợp với lao lực quá độ, ăn kém, đổi thay phong thái đột ngột mà phát thành bệnh. Lúc này, khí cơ lâm thời nghịch loạn gây đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, có thể ngã, hôn mê, sắc mặt trắng bệch, hơi thở yếu, ra mồ hôi nhiều, chân tay lạnh, chất lưỡi nhợt, mạch trầm vi. Sau thời kì ngắn thì bệnh nhân lại tỉnh dần, sau khi tỉnh không để lại di chứng.

Pháp điều trị: bổ khí hồi dương.

Bài thuốc: do bệnh cấp tính nên cần mau chóng điều trị.

Uống bài Độc sâm thang, ngày 01 thang.

Tham khảo thêm về điều trị: hiện giờ, Trung Quốc dùng thuốc tiêm tĩnh mạch chậm như dịch tiêm Sinh mạch (nhân sâm, mạch môn, ngũ vị tử) 10 - 20ml, dịch tiêm Sâm mạch (nhân sâm, mạch môn) 20 - 30ml.

Nhĩ châm: điểm dưới vỏ, điểm thượng thận, điểm nội tiết, giao cảm, tâm, phế, điểm thăng áp.

Cứu: cứu cách tỏi ở rốn hoặc cho bột hồ tiêu vào rốn rồi dùng cao thuốc bít lại và cứu.

Thời kỳ ổn định

Thể tâm tỳ lưỡng hư

Lâm sàng: sắc mặt trắng, chóng mặt, đau đầu, hoa mắt, hụt hơi, ngại nói, mỏi mệt, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.

Pháp điều trị: hữu ích tâm tỳ.

Bài thuốc: Quy tỳ thang hoặc Bổ trung ích khí thang.

Bài Quy tỳ thang:

Bạch truật

15g

Đương quy

12g

Phục thần

10g

Hoàng kỳ

20g

Long nhãn

12g

Viễn chí

06g

Táo nhân

10g

Mộc hương

06g

Cam thảo

06g

Nhân sâm

03g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc này, nhân sâm có tác dụng “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách” để bổ khí sinh huyết, dưỡng tâm ích tỳ. Long nhãn có tác dụng có ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần. Hoàng kỳ, bạch truật giúp nhân sâm ích khí kiện tỳ. Đương quy giúp long nhãn dưỡng huyết bổ tâm. Phục thần, viễn chí, táo nhân có tác dụng ninh tâm an thần. Mộc hương có tác dụng lý khí tỉnh tỳ, phối hợp với thuốc bổ khí dưỡng huyết làm cho bổ mà không nê trệ ở vị. Cam thảo có tác dụng ích khí bổ trung và điều hòa các vị thuốc. Khi sắc thuốc cho thêm sinh khương, đại táo để điều hòa tỳ vị và giúp cho tăng cường công năng tiêu hóa, tiếp nhận.

Bài Bổ trung ích khí thang:

Hoàng kỳ

20g

Cam thảo

06g

Nhân sâm

06g

Thăng ma

06g

Sài hồ

12g

Trần bì

06g

Đương quy

12g

Bạch truật

15g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc này thì hoàng kỳ nhập kinh tỳ, phế; có tác dụng bổ trung ích khí để thăng đề dương khí, bổ phế vệ để cố biểu nên có tác dụng cầm mồ hôi (chỉ hãn). Nhân sâm, bạch truật và cam thảo đều có tính vị ngọt ấm và có tác dụng bổ trung khí, phối hợp với hoàng kỳ để tăng cường tác dụng bổ khí kiện tỳ. khí hư lâu ngày thường gây tổn thương đến huyết bởi vậy kết hợp với đương quy để dưỡng huyết hòa doanh. Thanh dương không được thăng làm trọc âm không giáng nên phối hợp với trần bì để hành khí, giúp cho khôi phục thăng giáng làm cho chất thanh trọc được vận hành đúng đường, đồng thời còn có tác dụng lý khí hòa vị làm cho thuốc bổ mà không trệ. bắc sài hồ, thăng ma là vị thuốc có tính nhẹ, có tác dụng thăng tán nên khi kết hợp các vị thuốc ích khí sẽ có tác dụng thăng đề trung khí hạ hãm. Cam thảo còn có tác dụng để điều hòa vị thuốc.

Nếu hồi hộp, trống ngực, ngủ kém thì gia toan táo nhân 10g, bá tử nhân 12g.

Nếu chóng mặt nhiều thì gia bạch thược 20g, thiên ma 12g.

Thể khí âm lưỡng hư

Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, mỏi mệt, khó thở nhẹ, hồi hộp trống ngực, miệng khô, chất lưỡi nhợt hoặc hồng, rêu lưỡi ít, mạch trầm tế.

Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm.

Bài thuốc: Sinh mạch tán.

Nhân sâm 09g Mạch môn 12g Ngũ vị tử 06g

Bài thuốc trên áp dụng liều ăn nhập để sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc này thì nhân sâm có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích phế sinh tân, cố thoát chỉ hãn; mạch môn có tác dụng tư âm nhuận táo, hiệp trợ cho nhân sâm, khí âm cùng bổ; ngũ vị tử có tác dụng ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn. Khi dùng ngũ vị tử kết hợp nhân sâm và mạch môn là để ngăn ngừa khí tân ngoại tiết và để khôi phục tổn thương của khí âm.

Nếu bệnh nhân thiên về khí hư thì gia hoàng kỳ 20 - 30g, bạch truật 15 - 20g.

Nếu thiên về âm hư thì kết hợp với bài Nhị chí hoàn (Phù thọ tinh phương):

Đông thanh tử Hạn liên thảo

Các vị thuốc trên liều bằng nhau, tán nhỏ rồi hoàn mật ong, mỗi lần uống 09g.

Trong bài thuốc này thì đông thanh tử là quả cây đông thanh ( ilex chinensis sims ) có tác dụng trừ phong, bổ hư.

Bài thuốc này có tác dụng bổ can ích thận, tư âm chỉ huyết.

Thể thận dương hao hư

Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, ù tai, hay quên, đau lưng, mỏi gối, sợ lạnh, chân và tay lạnh, tiểu đêm nhiều lần, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế.

Pháp điều trị: ôn thận trấn tinh.

Bài thuốc: Hữu quy hoàn gia vị.

Thục địa

240g

Hoài sơn

120g

Sơn thù

90g

Kỷ tử

120g

Lộc giác

120g

Thỏ ty tử

120g

Đỗ trọng

120g

Đương quy

90g

Nhục quế

60g

Phụ tử chế

60g

Nấu thục địa thành cao lỏng, sau đó tán nhỏ các vị thuốc còn lại, trộn cùng với mật ong làm viên hoàn, mỗi lần uống 06 - 09g, ngày 02 lần.

Trong bài thuốc này, phụ tử và nhục quế nhập kinh thận, có tác dụng ôn tráng nguyên dương, bổ mệnh môn hỏa. Lộc giác có vị ngọt mặn hơi ấm, bổ thận ôn dương, ích tinh dưỡng huyết. Ba vị thuốc này phối hợp với nhau để bồi bổ nguyên dương của thận. Thục địa, sơn thù, kỷ tử, hoài sơn đều là các vị thuốc có tính vị ngọt nhuận; tác dụng tư âm bổ thận, dưỡng can bổ tỳ, trấn tinh bổ tủy. Thỏ ty tử và đỗ trọng có tác dụng bổ can thận, cường cân cốt. Đương quy có tác dụng dưỡng huyết hòa huyết và giúp lộc giác bổ dưỡng tinh huyết. Bài thuốc này được cấu tạo từ bài Thận khí hoàn nhưng bỏ đi ba vị thuốc có tác dụng tả (trạch tả, đan bì, bạch linh), song song gia các vị thuốc ôn thận ích tinh để tạo nên bài thuốc chỉ có bổ mà không có tả và lấy ích thận tráng dương để mà trấn tinh ôn dương. Bài thuốc này dùng pháp điều trị là có ích nguồn của hỏa để bồi nguyên dương của thận hỏa (hữu thận) nên gọi là Hữu quy hoàn.

Nếu bệnh nhân thấy sợ lạnh, chân và tay lạnh thì gia ba kích 12g, lộc giác 12g, tử hà xa 12g.

Nếu thấy mạch trì thì gia can khương 08g, tế tân 06g, ma hoàng 08g.

Nếu chất lưỡi tím hoặc có ban ứ huyết thì gia xuyên khung 12g, đương quy 12g, hồng hoa 10g để tăng cường hoạt huyết khứ ứ.

KẾT LUẬN

y khoa cựu truyền xếp các triệu chứng của bệnh áp huyết thấp thuộc phạm trù huyễn vựng, quyết chứng, hư lao.

duyên do gây chứng áp huyết thấp cốt liên can đến thân cựu hư yếu hay do ăn uống không điều độ, mắc bệnh mạn tính lâu ngày, tác dụng phụ của thuốc... gây nên.

Cơ chế bệnh sinh của chứng áp huyết thấp liên can khăng khít đến rối loạn công năng của các tạng tâm, tỳ, thận. bản tính bệnh thuộc hư chứng, phối hợp với các nguyên tố đàm trệ và huyết ứ.

Trong điều trị, người thầy thuốc phải cứ vào các triệu chứng lâm sàng để tiến hành biện chứng luận trị, tuyển lựa pháp điều trị và bài thuốc cho ăn nhập; phối hợp với các biện pháp không dùng thuốc như châm, cứu hoặc điều chỉnh chế độ ăn uống, chế độ luyện tập khí công sinh dưỡng.

để ý: kết hợp y khoa đương đại, tìm rõ nguyên cớ gây áp huyết thấp để phối hợp dùng thuốc và xử lý cấp cứu khi cấp thiết.

Back To Top