Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Nhiễm trùng bệnh viện

Nhiễm trùng bệnh viện

ĐỊNH NGHĨA

Nhiễm trùng bệnh viện (NTBV) là nhiễm trùng xảy ra lúc người bệnh nằm điều trị ở bệnh viện, nhiễm trùng này không diễn tả cũng không ở thời kỳ ủ bệnh lúc người bệnh vào viện. Những nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện nhưng chỉ bộc lộ sau khi người bệnh rời bệnh viện cũng được kể vào. mặc dầu nhiều NTBV có thể dự phòng nhưng có một số chẳng thể phòng ngừa nên NTBV không tương đương với nhiễm trùng do thầy thuốc tức là nhiễm trùng do can thiệp chẩn đoán hoặc điều trị như đặt ống thông niệu đạo hoặc thông tĩnh mạch. Nhiễm trùng cơ hội xảy ra ở những bênh nhân mà cơ chế bảo vệ bị suy giảm và thường gây nên do những tác nhân nhiễm trùng thông thường không gây bệnh ở người khỏe mạnh. Nhiễm trùng dịp gây nên do vi khuẩn ở khuẩn chí của người bệnh và thường không tránh khỏi vì can dự đến thương tổn ở rào cản niêm mạc hoặc những cơ chế bảo vệ khác của người bệnh.

nguyên do VÀ DỊCH TỄ HỌC

Tỷ lệ bệnh

NTBV xảy ra từ 2 đến 10 % (nhàng nhàng 5%) nguời bệnh điều trị ở bệnh viện. Tỷ lệ NTBV đổi thay tùy theo bệnh viện, thường cao ở những bệnh viên trung ương; điều này đề đạt tình trạng nặng hơn của chứng bệnh ở người bệnh và việc sử dụng nhiều hơn những dụng cụ chẩn đoán và điều trị dễ gây chấn thương.

NTBV có thể nghiêm trọng và dẫn đến tử vong. làng nhàng NTBV có tỷ lệ tử vong 1%, chi phí điều trị NTBV khá lớn. Hơn nữa NTBV làm giảm năng suất lao động vì người bệnh phải được điều trị thêm một thời kì.

Vi sinh vật gây NTBV

Thường gặp nhất là vi khuẩn hiếu khí Gram âm, tụ cầu, liên cầu ruột.

Trực khuẩn Gram âm quan trọng nhất trong các vi sinh vật gây NTBV vì chúng là tác nhân chính của nhiễm trùng đường tiểu và còn gây bệnh ở những vị trí khác. Những trực khuẩn đường ruột như E. coli , Klebsiella thường tìm thấy trong NTBV ở những bệnh nhân mà cơ chế bảo vệ bị suy giảm. Nhiều trực khuẩn Gram âm như Pseudomonas Klebsiella có nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu nên có thể tạo nên những ổ bệnh ở môi trường bệnh viện cũng như ở người bệnh. Các trực khuẩn Gram âm phát triển sự đề kháng thuốc nhanh hơn các cầu khuẩn Gram duơng, trực khuẩn Gram âm trở thành kháng thuốc qua thu hoạch plasmid R. ngoại giả Enterobacter , Pseudomonas Serratia còn có cơ chế đột biến thể nhiễm sắc đề kháng penicillin và cephalosporin.

Trong các cầu khuẩn Gram dương S. aureus hiện vẫn còn là tác nhân gây bệnh quan trọng. Nó thường gây nhiễm trùng vết thương phẩu thuật, bỏng và thông tĩnh mạch. Tụ cầu vàng tìm thấy khắp nơi, ở da, tóc, tị hầu của người bệnh và nhân viên bệnh viện, ở tay nhân viên bệnh viện, ở phương tiện và ở hồ hết đồ vật tìm thấy ở bệnh viện. Nhiều chủng S. aureus kháng thuốc được tìm thấy ở nhiều bệnh viện, chúng có thể gây nên những vụ dịch nhiễm trùng ở những đơn vị chăm sóc hăng hái. Chúng đề kháng với erythromycin, clindamycin và aminoglycoside. Những chúng tụ cầu kháng methicillin (MRSA: methicillin resistant S. aureus ) cũng là tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện gặp khá phổ quát nhiều nơi trên thế giới: ở Đan Mạch gặp với tỷ lệ 0,1%, Thuỵ Điển 0,3%, Hà Lan 1,5%, Thuỵ Sĩ 1,8%, ở một số nước khác tìm thấy cao hơn 20% chủng tụ cầu kháng methicillin như ở Áo 21,6%, Begium 25,6%, Tây Ban Nha 30,3%, Pháp 33,6% Những chủng S. epidermidis cũng mang những gen đa đề kháng và có thể truyền những gen đó cho S. aureus .

Liên cầu ruột được biết từ lâu là một tác nhân NTBV quan trọng về đường tiểu, nó là tác nhân có ý nghĩa ở vết thương của những người bệnh điều trị với các cephalosporin. Đặc biệt nhiều chủng enterococci đề kháng aminoglycoside như gentamicin và vancomycin

Danh sách những vi sinh vật quan trọng trong NTBV đang tăng lên đáng kể. Những nhiễm trùng thời cơ gây nên bởi những vi khuẩn độc lực thấp ( S. epidermidis ) và nấm (Aspergillus, Candida) cũng thường gặp. Viêm ruột kết do Clostridium difficile là hậu quả của sự biến đổi khuẩn chí đường ruột do điều trị kháng sinh.

Virus đường hô hấp như virus hợp bào đường hô hấp và virus cúm, gần đây virus corona gây bệnh SARS (severe acute respiratory syndrome) là các tác nhân NTBV. Những virus khác như virus viêm gan, HIV can dự đến nhiễm trùng do truyền máu hoặc các sản phẩm máu, do tai biến. Cytomegalovirus, virus varicella-zoster và rotavirus cũng giữ một vai trò đáng kể trong NTBV, những tác nhân này gây nhiễm trùng bệnh viện ở những người suy miễn dịch, ở những bệnh nhân ghép cơ quam .

Ổ chứa

viên chức y tế, bệnh nhân và những người đến thăm là ổ chứa đầu tiên.

hầu hết nhiễm trùng bệnh viện khởi hành từ vi khuẩn sống trên cơ thể người bệnh

Các vi khuẩn gây bệnh thường cư trú ở các vị trí gồm: hốc mũi như tụ cầu vàng, tụ cầu kháng methicillin; trên da S. epidermidis ; ở đường tiêu hoá như enterococci , các vi khuẩn họ đường ruột, các loài Candida . Ở đường sinh dục tiết niệu enterococci , vi khuẩn họ đường ruột.

Những bệnh nhân bị nhiễm trùng hay ở tình trạng mang các vi khuẩn đề kháng như enterococci đề kháng thuốc, tụ cầu kháng methicillin, Clostridium difficile sẽ làm nhiễm bẩn môi trường. Và môi trường bị nhiễm bẩn lại trở thành ổ chứa thứ phát. Một số môi trường là ổ chứa trước nhất một số vi khuẩn gây bệnh như: nước chứa vi khuẩn Legionella , các loài Pseudomonas ; thức ăn chứa các vi khuẩn đường tiêu hoá

Sự truyền nhiễm vi sinh vật trong NTBV

Lây trực tiếp

Trong bệnh viện, tay viên chức y tế thường bị nhiễm bẩn tạm và thường là môi giới truyền vi khuẩn từ người này đến người khác. Những nhân viên y tế khoẻ mạnh thường mang các vi khuẩn gây bệnh như tụ cầu vàng, Streptococcus pyogene s, Salmonella enteritidis và truyền các vi khuẩn này cho người bệnh.

Lây qua phương tiện

Các phương tiện như nhiệt kế điện tử, thuốc men, các loai dịch chuyền tĩnh mạch, thức ăn, sữa, các loai dung dịch uống có thể truyền các vi khuẩn gây nhiễm trùng bệnh viện cho người bệnh.

Lây qua không khí

Không khí trong bệnh viện, hệ thống thông khí có thể truyền các tác nhân như M. tuberculosis , virus varicella-zoster, virus corona gây SARS, các loài nấm Aspergillus . Bụi nước bị nhiễm bẩn có thể truyền các vi khuẩn Legionella

Những nguyên tố ảnh hưởng đến NTBV

Cũng như phần đông những nhiễm trùng, NTBV là hậu quả của sự tương tác giữa 2 nhân tố

nguyên tố vi sinh vật : Độc lực và khả năng lan tràn của vi sinh vật gây bệnh,

Sự đề kháng của người bệnh : Tuổi, chứng bệnh, sự kiêm toàn của niêm mạc và da và tình trạng miễn nhiễm là những nguyên tố chính quyết định tỷ lệ bệnh và hậu quả của NTBV. Những cơ chế bảo vệ cơ thể: vật lý (suy giảm trong trường hợp bỏng hoặc chấn thương), hóa học (thiếu HCl dịch vị, cắt bao tử làm giới hạn axit dịch vị) hoặc miễn dịch (bệnh Hodgkin, hóa liệu pháp chống ung thư.v.v...) ảnh hưởng mạnh mẽ đến NTBV.

Ngoài người bệnh và vi sinh vật, những yếu tố khác liên hệ đến NTBV bao gồm các biện pháp chẩn đoán dò xét chức năng, những phương thức điêu trị, những bệnh nhân nhiều nguy cơ NTBV là những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh nhân điều trị với thuốc làm giảm sức bảo vệ (corticosteroid .v.v...) và bệnh nhân trong quá trình điều trị là đối tượng với nhiều lần can thiệp. sử dụng ngày một nhiều những phương pháp chân đoán gây chấn thương làm tăng xác suất NTBV.

viên chức bệnh viện cũng có nguy cơ NTBV, nhân viên ở phòng xét nghiệm có mẫu nghiệm máu có thể mắc bệnh viêm gan virus, HIV và ở những khoa lây (lao, ho gà...).

NHỮNG NHIỄM TRÙNG BỆNH VIỆN THƯỜNG GẶP

Nhiễm trùng đường tiểu

Nhiễm trùng đường tiểu chiếm khoảng 40% NTBV và thường do đưa dụng cụ vào niệu đạo, bọng đái và thận. nguyên tố thuận lợi cho nhiễm trùng ngược dòng là đặt ống thông niệu đạo làm bất hoạt rào cản thường nhật. Khảo sát cho thấy 10-15% bệnh nhân người lớn được thông niệu đạo, trong đó nhiều trường hợp không cấp thiết đặt. Đường tiết niệu là tiêu điểm nhiễm trùng thuờng gặp nhất đưa đến nhiễm khuẩn huyết do vi khuẩn Gram âm.

Nhiễm trùng vết thương

phần đông nhiễm trùng vết thương gây nên do vi khuẩn trực tiếp đưa vào mô trong thời gian giải phẫu. thường nhật vi khuẩn có nguồn cội là khuẩn chí của người bệnh, tuy nhiên viên chức giải phẫu có thê là cỗi nguồn của nhiễm trùng, đặc biệt với liên cầu A và S. aureus . Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm trùng vết thương bao gồm loại giải phẫu, thời kì giải phẫu, kỹ năng của thầy thuốc và sức khỏe cơ bản của người bệnh. giải phẫu ở những vị trí bị nhiễm bẩn như ruột, cơ quan sinh dục nữ thường dễ bị nhiễm trùng hơn là ở những vị trí vô trùng trước khi mổ. phẫu thuật thời gian dài hoặc giải phẫu trong đó những mô chết, vật thể lạ hoặc bướu máu được lấy đi thường tăng tỷ lệ nhiễm trùng vết thương. Những nhân tố thuận tiện khác bao gồm người lớn tuổi, tình trạng dinh dưỡng kém, sự hiện diện của một tiêu điểm nhiễm trùng ở đâu đó, bệnh đái đường, suy thận và điều trị corticosteroid.

Những vết thương không mổ gồm bỏng, loét do nằm, loét ở da do tắc ngẽn tĩnh mạch hoặc động mạch cũng là vị trí của NTBV. Những vi khuẩn gây nhiễm trùng cũng tương tự như ở vết thương mổ trừ nhiễm trùng bỏng thường do P. aeruginosa và nhiễm trùng lóet ở vùng chậu cũng như những chi dưới thường do khuẩn chí ở ruột.

Viêm phổi

Nhiễm trùng đường hô hấp dưới thường là nguyên nhân đưa đến tử vong ở NTBV Mặc dù về tỷ lệ nó đứng thứ ba sau nhiễm trùng đường tiểu và nhiễm trùng vết thương. Những vi khuẩn gây bệnh chính yếu là trực khuẩn Gram âm và S. aureus , những vi khuẩn này thường đến đường hô hấp dưới do từ họng hơn là qua đường máu. Viêm phổi bệnh viện thường xảy ra ở các đối tượng sau:

Người bệnh trớ mà phản xạ nôn và ho không hiệu quả

Người bệnh có chứng bênh phổi hoặc suy tim xung huyết

Người bệnh cần dùng phương tiện hoặc hỗ trợ thông khí.

Sự truyền nhiễm virus đường hô hấp ở bệnh viện cũng hay gặp đặc biệt ở khoa nhi, nhưng trừ trường hợp cúm, hợp bào đường hô hấp, gần đây virus corona gây viêm phổi cấp và suy hô hấp cấp tính nặng có tỷ lệ tử vong cao trên 10% bệnh nhân bị nhiễm trùng. viên chức bệnh viện thường nhiễm virus hô hấp của người bệnh và sự lây lan do hit phải hoặc xúc tiếp trực tiếp qua niêm mạc các giọt chất tiết có virus từ bệnh nhân khi săn sóc , khi tiếp xúc với người bệnh. Các phương thức lây khác như dùng các dụng cu hổ trợ hô hấp, qua tay...Biện pháp phòng ngừa sự truyền nhiễm các virus hô hấp như SARS gồm phát hiện và cách ly bệnh sớm, dùng biện pháp bảo vệ như dùng khẩu trang có lọc, mang găng và các y phục bảo vệ mắt, đầu khi săn sóc người bệnh.

Nhiễm khuẩn huyết

Mặc dù nhiễm khuẩn huyết có thể xảy ra ở bất cứ NTBV nào, nhưng canuyn huyết quản bị nhiễm bẩn là căn do bình thường và dễ đề phòng nhất của nhiễm khuẩn huyết tiên phát ở bệnh viện. Nhiễm trùng do điều trị tĩnh mạch chiếm khoảng 5% tổng số NTBV và 10% của tổng số cấy máu dương tính. Những vi khuẩn gây bệnh thường gặp là S. epidermidis , S. aureus , trực khuẩn Gram âm và liên cầu ruột. Lúc dinh dưỡng bằng dịch qua ống thông thì Candida cũng là tác nhân quan trọng. Vi khuẩn có thể vào ở bất cứ vị trí nào khi có đường chuyền dịch, thường vị trí vào da lúc đặt Canuyn hoặc những thủ thuật sau đó và vi sinh vật theo canuyn vào máu. dịch truyền có thể bị nhiễm khuẩn gây nên nhiễm khuẩn huyết do một trong những vi khuẩn kém độc lực như Enterobacter, Serratia , Citrobacter freundii , những vi khuẩn này có thể phát triển ở dịch truyền chứa 5% glucose.

Nhiễm khuẩn huyết tạm bợ sau những thao tác chẩn đoán hoặc điều trị ở miệng, đường hô hấp, đường tiêu hóa, đường sinh dục thường được người bệnh dung nạp tốt. Tuy nhiên những người có bệnh tim hoặc van tim bẩm sinh có thể có nguy cơ viêm màng trong tim lúc chịu những thao tác nói trên và cần được đề phòng bằng kháng sinh.

Nhiễm trùng các virus viêm gan B, C và HIV

Nhiễm trùng do virus viêm gan B và virus HIV can dự không những người bệnh và cả viên chức y tế trong coi sóc bệnh nhân hoặc thao tác mẫu máu của người bệnh. Người bệnh nhiều nguy cơ là người bệnh nhận chuyền máu hoặc chế phẩm máu hoặc những bệnh nhân qua thẩm phân lọc máu. Việc xét nghiệm sàng lọc để loại trừ những người cho máu bị nhiễm trùng các virus này cùng với việc xử lý máu trước khi chuyền để loại trừ HIV làm giảm tỷ lệ viêm gan do virus B và C và HIV sau truyền máu. Sự lây nhiễm HIV xảy ra cho viên chức y tế do các tai biến kim tiêm hoăc các dụng cụ sắc nhọn đâm vào tay trong quá trình lấy máu, mỗ xẽ..Nhiễm trùng HIV trong nhổ răng từ bác sĩ đến người bệnh cũng đã được đề cập

Những biện pháp phòng ngừa nhiễm trùng các virus viêm gan và HIV bao gồm:

Cần phổ quát ý thức phòng bệnh để giới hạn sự lây do kim tiêm hoặc tiếp xúc trực tiếp.

Dán nhãn và thao tác cẩn thận sờ soạng mẫu máu và mô của người bệnh.

Khuyến cáo nhân viên có nguy cơ nhiễm trùng nên tiêm phòng vacxin

Cần lưu ý những trường hợp nhiễm trùng HIV trong tuổi sớm các xét nghiệm sàng lọc tìm kháng thể sè cho kết quả âm tính. Những mẫu máu ngờ cần được kiễm tra kỷ bằng tìm khánh nguyên hoặc axit nucleic của virus.

Tiêm ngay globulin miễn nhiễm viêm gan B và vacxin viêm gan B cho nhân vien và người bệnh có nguy cơ đặc biệt viêm gan B như bị kim tiêm người bệnh viêm gan B đâm vào da.

soát NHIỄM TRÙNG BỆNH VIỆN

đích

rà NTBV bao gồm những đích :

Làm giảm nguy cơ NTBV ở người bệnh.

chăm sóc đầy đủ những người bệnh bị nhiễm trùng lây truyền mạnh.

Giảm đến mức tối thiểu nguy cơ nhiễm trùng ở nhân viên bệnh viện.

Phần lớn những bệnh viện thành lập một ban soát NTBV. Ban này có nhiệm vụ :

Tìm biện pháp hợp để xử lý bệnh nhiễm trùng.

Xác định và theo dõi những người bệnh bị bệnh truyền nhiễm.

đề phòng sự lây nhiễm bệnh nhiễm trùng ở người bệnh và viên chức.

Theo dõi việc dùng kháng sinh và mức độ mẫn cảm với kháng sinh của các vi sinh vật thường gây NTBV.

Biện pháp

Những biện pháp cốt tử bao gồm rửa tay giữa những lần tiếp xúc với người bệnh, cách li thích đáng những bệnh nhiễm trùng dễ lây truyền, áp dụng những biện pháp dịch tễ học để xác định và loại bỏ kịp thời những ổ nhiễm trùng.

Những biện pháp dự phòng không những ứng dụng với người bệnh mặc cả với viên chức bệnh viện.

Lúc nhập viện phải tuyển lựa riêng người bệnh lây, điều này đặc biệt quan trọng với khoa nhi, khoa ung thư và khoa ghép cơ quan vì những bệnh nhiễm trùng ít quan trọng như thủy đậu, sởi có thể hiểm với người bệnh ở những khoa đó.

Back To Top