Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Phòng chống bệnh giun sán ở Việt Nam

buồng bệnh giun sán ở Việt Nam

Các bệnh giun sán kí sinh là bệnh rất phổ thông ở những nước đang phát triển nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới. vì thế các bệnh giun sán cũng là một vấn đề sức khoẻ ưu tiên của 25% dân số trên thế giới.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) (1995), các bệnh giun sán lây nhiễm qua đất đẵn là giun đũa, giun móc/mỏ, giun tóc… trên toàn cầu có tới 1,4 tỉ người nhiễm giun đũa, giun tóc và 1,3 tỉ người nhiễm giun móc. Số ngưòi chết do giun đũa gây nên là 60.000 người, giun tóc là 10.000 người và giun móc là 65.000 người hàng năm. Các bệnh lây nhiễm giữa động vật và người chủ yếu là sán lá gan, sán lá phổi, sán xơ mít, ấu trùng sán dây, giun soắn... ước tính trên thế giới có khoảng 40 triệu người nhiễm sán lá và 100 triệu người nhiễm sán dây. Bệnh giun chỉ gặp nhiều ở các nước châu Phi, châu Á và vùng Đông Nam Á đe doạ sức khoẻ của khoảng 1,1 tỉ người. Trước tình hình đó nhiều nước trên thế giới đã đưa công tác buồng giun sán thành chương trình y tế nhà nước như: Thái Lan, Malaysia, Philippines, Campuchia… chương trình phòng chống giun chỉ bạch huyết ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước châu Phi…

Việt Nam do điều kiện thiên nhiên tiện lợi cho mầm bệnh giun sán phát triển quanh năm. phần đông bệnh giun sán ở người có nguồn cội từ thú nuôi và thú hoang dại. Mặt khác do nhiều nhân tố nguy cơ: đời sống kinh tế xã hội, tập quán canh tác, tập quán vệ sinh, dân trí, trình độ giáo dục, vệ sinh môi trường... nên bệnh giun sán là một trong những bệnh phổ thông nhất ở nước ta.

Đây là một vấn đề lớn của cộng đồng cả nước, gây nhiều tác hại lâu dài và nghiêm trọng tới sức khoẻ của quần chúng, sự phát triển về thể chất và ý thức của trẻ con, nữ giới có thai. ước tính khoảng từ 60 - 70% dân số nhiễm chí ít một loại giun sán, nghĩa là khoảng 50 - 60 triệu người dân nhiễm giun sán.

Một số loại giun có tỉ lệ nhiễm cao và phổ biến là các loại giun truyền qua đất: giun đũa ( Ascaris lumbricoides ): 60 triệu người nhiễm, giun tóc ( Trichuris trichiura ): 40 triệu người nhiễm và giun móc/mỏ ( Ancylostoma duoenale/ Necator americanus ): 20 triệu người nhiễm.

Số liệu được thống kê tới năm 2004 cho thấy: một số loại sán phổ thông ở vùng địa lí như bệnh sán lá gan nhỏ ( Clonorchis sinensis, Opisthorchis viverrini ) ở vùng có nhiều ao hồ nuôi cá có tỉ lệ nhiễm cao như Ninh Bình, Nam Định tới 70% và đã phát hiện được tại 21 tỉnh trong cả nước, sán lá gan lớn ( Fasciola gigantica ) đã phát hiện được ở 30 tỉnh (4/2005), sán lá phổi ( Paragonimus heterotremus ) đã phát hiện được ở 8 tỉnh phía Bắc, sán dây bò ( Taenia saginata ) đã phát hiện được ở 49 tỉnh, sán xơ mít lợn ( Taenia solium ) đã phát hiện ở 30 tỉnh; bệnh giun chỉ ở một số vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Duyên Hải, miền Trung tuy có giảm, nhưng nguy cơ tiềm ẩn còn rất lớn.

Người có thể bị nhiễm những loại giun của động vật như: giun đũa chó, mèo ( Toxocara ), giun móc chó ( Ankylostoma caninum ), giun đầu gai ( Gnathostoma ), Angiostrongylus, giun soắn ( Trichinella )… Đây là nhóm bệnh ấu trùng di chuyển (larva migrans) khó chẩn đoán, nhưng gây nhiều tác hại nguy hiểm (ở não, mắt, gan, cơ vân…) nhất là trẻ con và những người có nhiều yếu tố tiện lợi cho những bệnh kí sinh trùng dịp ngày một tăng: người suy giản miễn nhiễm (HIV), đái đường, dùng corticoid kéo dài...

Từ bấy lâu, công tác phòng các bệnh giun sán kí sinh hầu như bị quên lãng hoặc có đầu tư nhưng không đáng kể, thiếu đồng bộ.

Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và quốc gia, ngành Y tế và toàn dân trong nhiều thập kỉ qua đã thực hành nhiều biện pháp để phòng các bệnh giun sán nhưng kết quả thu được còn rất hạn chế. Tình hình nhiễm và mắc bệnh giun sán vẫn rất còn nặng, phổ thông trên diện rộng.

Từ các hoạt động gian trên, ngày 11/12/1998 Bộ trưởng Bộ Y tế đã có quyết định số 228/1998/QĐ - BYT đưa công tác “phòng giun sán” thành một dự án y tế cấp Bộ, bởi vậy công tác gian giun sán càng được quan tâm và có nhiều chuyển biến ở nhiều địa phương trong cả nước.

Mục tiêu của dự án chương trình phòng giun sán.

Giảm tỉ lệ nhiễm.

Giảm cường độ nhiễm.

Giảm tác hại.

Khống chế một số bệnh giun sán gây nhiều tác hại khu trú ở những điểm hẹp nhưng rải rác như sán lá gan, sán lá phổi, giun chỉ, ấu trùng sán xơ mít....

Như vậy, chừng độ và tác hại của bệnh giun sán ở Việt Nam là rất lớn. Do bệnh thường biểu hiện không rõ, tác hại từ từ, nên phần đông người bệnh bị bệnh mà không biết hoặc xem thường, chủ quan. Bệnh giun sán là bệnh phụ thuộc vấn đề kinh tế - tầng lớp, khi các vấn đề đó chưa phát triển thì bệnh phát triển và trái lại.

từng lớp ở đây theo nghĩa rộng: bao gồm dân trí, giáo dục, văn minh, văn hoá, tập quán, hành vi... Phát triển kinh tế - từng lớp là một quá trình đầy khó khăn, liên tục, không có kết thúc. nên chi phòng chống giun sán là một công việc gian truân, lâu dài. dù rằng vậy nếu tập kết mạnh vào quản lí và xử lí phân, cung cấp nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm, thay đổi một số tập quán canh tác và hành vi ăn uống thì có thể khống chế được bệnh.

Cơ sở khoa học để xây dựng kế hoạch phòng giun sán.

Để cho công tác buồng giun sán có hiệu quả, cần phải dựa trên những cơ sở khoa học sau đây:

Dựa vào đặc điểm sinh lí, sinh thái, chu kì của giun sán.

Dựa vào đặc điểm dịch tễ học bệnh giun sán.

Phân tích các yếu tố nguy cơ (địa lí, khí hậu, tập quán, môi trường, dân trí, văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội... của từng vùng, từng cộng đồng cụ thể để tìm mối can dự đến bệnh).

coi xét các điều kiện khoa học kĩ thuật, tài chính, các nguồn lực có thể huy động để phòng giun sán.

chọn lựa ưu tiên như:

Bệnh giun sán gây tác hại nhất.

Bệnh giun sán phổ biến.

Bệnh gây nhiều thể nặng và có thể gây tử vong (bệnh sán lá, bệnh ấu trùng sán xơ mít...).

hội tụ vào đối tượng đích: lứa tuổi, nghề... chịu tác hại nhiều nhất do bệnh giun sán gây ra.

Lớp người nghèo khổ, khó khăn ở vùng sâu, vùng xa.

Bệnh giun sán đã có những giải pháp kĩ thuật, dụng cụ giải quyết…

Nguyên tắc chung phòng giun sán.

Có kế hoạch lâu dài, trong đó có các kế hoạch ngắn hạn.

Tiến hành trên quy mô rộng lớn.

tầng lớp hoá việc phòng chống giun sán.

Lồng ghép việc buồng giun sán vào các hoạt động y tế, sức khoẻ và các hoạt động tầng lớp khác.

dùng tổng hợp các biện pháp cụ thể.

Chiến lược trong gian giun sán.

Phát triển kinh tế tầng lớp, vì bệnh giun sán là bệnh phụ thuộc chém đẹp vào các điều kiện kinh tế - từng lớp.

Giải quyết các vấn đề vệ sinh môi trường (phân, nước, rác...).

Tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng, cho mọi người về gian giun sán làm đổi thay hành vi có hại.

Tăng cường vệ sinh thực phẩm, vệ sinh ăn uống, đảm bảo an toàn thực phẩm, nước uống.

Điều trị hàng loạt cho đối tượng có nguy cơ cao hoặc điều trị mở rộng.

Huy động cộng đồng, thuyết phục mọi người tự giác và thẳng tuột dự buồng giun sán.

Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và tăng cường trang thiết bị để phát hiện sớm những trường hợp giun sán nội tạng.

Nghiên cứu phác đồ điều trị đơn giản, điều trị hàng loạt tại cộng đồng, tại gia đình. Nghiên cứu điều trị các thể bệnh khó.

Các hoạt động cụ thể.

Phát triển kinh tế - từng lớp:

Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho cộng đồng, các bệnh giun sán nói chung sẽ giảm.

Nâng cao dân trí: mọi người có học thức khá sẽ hiểu tại sao bị bệnh giun sán và làm thế nào để phòng được bệnh.

Xây dựng nhà ở, khu dân cư sinh hoạt hợp vệ sinh

Giải quyết vệ sinh môi trường:

Mọi người, mọi nhà xây dựng và Sử dụng chuồng chồ hợp vệ sinh, thích hợp với từng địa phương, tốt nhất là dùng hiên tự hoại.

quản lí phân, không phóng uế bừa nhất là trẻ thơ (trẻ nít nông thôn tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cao, lại hay ỉa tự do nên làm ô nhiễm môi trường, nhất là con nít nhỏ chưa có tinh thần về vệ sinh).

Xử lí phân đúng quy trình, đảm bảo không còn mầm bệnh giun sán mới tưới, bón cho cây trồng.

Xử lí rác thải, nước thải ở cả thành thị và nông thôn.

Diệt ruồi, gián là trung gian truyền mầm bệnh giun sán.

Vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh ăn uống:

Cung cấp thực phẩm không có mầm bệnh giun sán: rau sạch không có trứng giun sán. Thịt không có ấu trùng sán xơ mít, ấu trùng giun soắn... Cá không có nang sán lá gan. Tôm, cua không có nang sán lá phổi...

rà soát sát sinh chặt, đảm bảo các loại thịt ăn phải qua thẩm tra của thú y.

Cung cấp đầy đủ nước sạch ăn, uống và sinh hoạt.

Tăng cường thanh tra, rà soát thực phẩm, nhất là nơi công cộng: chợ, nhà hàng, nhà ăn tập thể...

Chống ruồi, nhặng, gián làm ô nhiễm thức ăn.

Chống nhiễm thức ăn, nước uống. Trong bụi không khí có thể có trứng giun sán.

chú ý đặc biệt đối với những cơ sở, những người chế biến, bảo quản, sản xuất thực phẩm, lưu thông thực phẩm...

Truyền thông - giáo dục sức khoẻ về phòng giun sán:

Nội dung cốt yếu:

Tác hại của bệnh giun sán.

vì sao bị bệnh giun sán.

Các nguyên tố nguy cơ trong bệnh giun sán. - Cách buồng bệnh giun sán.

Bản thân mỗi người, mỗi gia đình làm gì để phòng giun sán cho mình, cho gia đình và cộng đồng mình.

Mỗi cộng đồng làm gì để phòng chống giun sán cho cộng đồng mình.

Phương pháp và triển khai:

Cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, sát hợp với đối tượng.

Nên trực tiếp trao đổi, bàn luận thuyết phục cộng đồng.

Sử dụng nhiều kênh để truyền thông giáo dục sức khoẻ: nghe nhìn, loa đài, ti-vi, tranh, tờ rơi, mô hình, tiêu bản giun sán thật, phim ảnh...

Thông qua giáo dục học đường, đây là biện pháp rất có hiệu quả vừa phòng bệnh cho học trò, mặt khác học sinh, giáo viên là những tuyên truyền viên rất tích cực và họ và họ có thể làm thẳng thớm được.

Làm ngay, nhiều lần, nhiều năm, không kì hạn.

Làm ở mọi nơi có thể làm được: gia đình, trường, nơi họp hành, nơi công cộng, chợ, nhà hàng, nơi sản xuất...

nhân viên y tế thôn bản, y tế cơ sở, giáo viên, học sinh, sinh viên là những người chủ yếu dự làm giáo dục sức khoẻ tại gia đình, tại cơ sở.

thay đổi tập quán, hành vi có hại để tạo nên hành vi có lợi cho phòng chống giun sán:

Không phóng uế bừa bãi làm ô nhiễm mầm bệnh giun sán.

Không dùng phân tươi bón cây trồng, nhất là trồng rau, củ ăn sống, rau thơm, mùi, hành, xà lách...

Không ăn rau sống không sạch (rau được tưới, bón bằng phân tươi...).

Không uống nước lã vì có nhiều loại trứng giun sán có thể ở trong nước lã.

Không ăn gỏi cá, gỏi tôm, gỏi cua, cua nướng để phòng bệnh sán lá gan, sán lá phổi.

Không ăn tiết canh để phòng bệnh giun soắn.

Hạn chế tiến tới không đi chân đất để phòng chống bệnh giun móc.

Nằm màn để phòng bệnh giun chỉ.

Những nơi nuôi vịt thả ruộng nước để ý bảo vệ da chân tay cho người làm đồng đề phòng bệnh sán máng vịt.

Những nếp vệ sinh cá nhân chủ nghĩa khác:

Bàn tay, ngón tay có thể dính trứng giun sán, nên cần rửa tay trước khi ăn, trước và sau khi chế biến thức ăn đồ uống. Rửa tay sau khi đi đại, tiểu tiện. Rửa tay trước khi cho trẻ ăn. để ý việc vệ sinh ở con nít, học trò, nông dân...

Cắt móng tay nhất là cho con trẻ.

Không cho trẻ mút tay.

Không cho trẻ mặc quần không đũng để phòng giun kim.

Ăn uống hợp vệ sinh....

Phát hiện bệnh:

Dùng nhiều phương pháp để phát hiện cho cá nhân và cho cộng đồng như:

Chẩn đoán vùng dịch tễ dựa vào địa lí, khí hậu, tập quán, khu hệ vật chủ trung gian...

Chẩn đoán lâm sàng.

Chẩn đoán xét nghiệm tìm kí sinh trùng trực tiếp hoặc gián tiếp phát hiện các bệnh giun sán ở máu và mô, nội tạng (phản ứng miễn dịch).

tụ hợp vào người có biểu đạt lâm sàng về giun sán và đối với đối tượng có nguy cơ cao vì tỉ lệ người nhiễm giun sán rất cao nên không thể xét nghiệm cho toàn bộ mọi đối tượng

Điều trị:

Điều trị cá thể cho người bệnh.

phần lớn bệnh giun sán là điều trị tại nhà, điều trị tại cộng đồng, nhưng không tự điều trị hoặc không nghe chỉ dẫn của những người bán thuốc không có giấy phép hành nghề. Muốn điều trị nhất định phải có chỉ dẫn của nhân viên y tế.

Điều trị hàng loạt: tập trung vào những đối tượng có nguy cơ cao, như điều trị giun đũa ở con nít, học sinh, nông dân, công nhân vệ sinh môi trường... Giun móc/mỏ ở nông dân, công nhân vệ sinh môi trường, người trồng hoa màu, công nhân mỏ than... Sán lá ở những nhóm người có tập quán ăn thịt chưa nấu chín. Giun kim ở trẻ thơ và các mẹ, chị nuôi trẻ. Giun chỉ ở vùng có nhiều ao bèo. Sán máng vịt ở vùng nuôi vịt. Sán nhái ở những người có hành vi đắp ếch nhái vào mắt để chữa bệnh...

Trong điều trị hàng loạt cần chú ý:

Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hành chu đáo, giảng giải cặn kẽ đầy đủ để phòng rủi ro.

Chọn thuốc và phác đồ thật an toàn để điều trị tại nhà, tại cộng đồng.

Điều trị nhiều đợt, nhiều năm.

Chọn thuốc trong điều trị hàng loạt, nếu có thể thì chọn thuốc:

Thuốc điều trị chỉ cần uống một lần duy nhất hoặc rất ngắn ngày.

Tác dụng với 2 - 3 loại giun.

Ít tác dụng không mong muốn.

Dễ uống.

Giá thuốc mọi người chấp nhận được.

Xử lí số giun sán tẩy ra để bảo đảm không ô nhiễm môi trường.

Giải pháp cụ thể cho một số vùng có nguy cơ nhiễm cao với một số loại giun sán phổ thông cần hội tụ phòng trọng tâm.

Giun chỉ:

Một số địa phương có nguy cơ nhiễm giun chỉ cao ở vùng đồng bằng sông

Hồng thuộc các tỉnh: thăng bình, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, một số vùng thuộc đồng bằng Duyên hải miền Trung: Khánh Hoà, Quảng Bình… cần phải:

Tăng cường phát hiện tiêu cực các ca bệnh giun chỉ bạch huyết tại cộng đồng và tại các cơ sở y tế.

Hướng dẫn cho vơ các viên chức y tế kĩ thuật xét nghiệm máu (lấy lam máu ban đêm) bằng kính hiển vi tìm ấu trùng giun chỉ khi có điều kiện hoặc có những dấu hiệu nghi ngờ.

Mở các chiến dịch tuyên truyền đạo dục sức khoẻ làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh trong cộng đồng. Nhất là lề thói mắc màn khi ngủ và vệ sinh môi trường hạn chế sự sản xuất, phát triển của vector truyền bệnh.

Điều trị những bệnh nhân nhiễm giun chỉ bạch huyết bằng DEC (diethyl carbamazin) với liều 6 mg/kg cân nặng/1 ngày, một đợt điều trị 12 ngày (tổng liều 72 mg/kg cân nặng). Hoặc có thể điều trị hàng loạt những vùng có tỉ lệ người nhiễm và nguy cơ lây truyền giun chỉ cao.

Sán lá gan nhỏ và sán lá gan lớn:

Một số địa phương có nơi tập quán nuôi cá bằng phân tươi, ăn gỏi cá thuộc các tỉnh: Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Phú Yên... cần phải:

Điều tra tình hình ô nhiễm mầm bệnh và phát hiện tỉ lệ bệnh trong các vùng dịch tễ.

Tăng cường phát hiện bị động và áp dụng kĩ thuật chẩn đoán miễn dịch học tại thực địa và bệnh viện.

Điều trị hàng loạt bằng praziquantel: 75mg/kg cân nặng cho những người nhiễm sán lá gan nhỏ tại cộng đồng và điều trị cả bệnh sán lá gan lớn bằng triclabendazole: liều 10 - 20mg/kg cân nặng.

Sán lá phổi:

Một số vùng cư dân sống gần suối, sông, có tập quán ăn tôm, cua nướng (đốn là ăn cua nướng), tập hợp ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Hà Giang... cần phải:

Phát hiện ca bệnh sán lá phổi thể phổi chủ động. con trẻ lứa tuổi đi học sẽ được khám ngay phát hiện bệnh phổi mạn tính, và, nếu có triệu chứng sẽ được xét nghiệm tìm sán lá phổi.

Các ca bệnh đã được xác định sẽ được điều trị đầy đủ.

Tăng cường khả năng phát hiện tiêu cực tại cộng đồng và các cơ sở y tế. Hướng dẫn cho thảy các nhân viên y tế kĩ thuật xét nghiệm đờm bằng kính hiển vi tìm trứng hoặc sán lá phổi trưởng thành và đặc biệt xét nghiệm đờm trên những bệnh nhân nghi lao phổi.

Mở chiến dịch truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng, nhằm giảm các hành vi nguy cơ nhiễm sán lá phổi.

Ấu trùng sán lợn:

Bệnh phân bố tản mạn, lẻ tẻ ở cả miền núi, trung du và đồng bằng. Trong những năm gần đây tỉ lệ người mang sán trưởng thành và ấu trùng sán lợn có khuynh hướng gia tăng, do điều kiện môi trường, sự thông thương các sản phẩm thịt lợn cũng như việc quản ngại giết mổ lợn chưa được kiểm soát chém.

Điều trị bằng liều đơn praziquantel: 10 - 20mg/kg cân nặng cho những người mang mầm bệnh sán dây.

Tăng cường phát hiện bị động và ứng dụng kĩ thuật chẩn đoán miễn nhiễm học cho vơ các trường hợp được khai báo là có động kinh, tăng áp lực sọ não...

vận dụng điều trị đặc hiệu tại các cơ sở y tế cho các bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định có ấu trùng sán dây lợn.

Cải thiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các hộ gia đình. Đặc biệt cần có sự cộng tác đàm đạo thông báo về ấu trùng sán xơ mít lợn giữa ngành Thú y và Y tế.

phối hợp một số ban ngành xây dựng mô hình chuẩn buồng bệnh ấu trùng sán xơ mít lợn.

Các loại giun truyền qua đất ( giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ ) :

Cần làm giảm tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm trong quy mô toàn quốc:

Tẩy giun định kì cho bít tất con nít lứa tuổi học đường với liều mebendazole 500 mg/1 lần và tẩy 2 lần/1 năm.

Việc uống thuốc kết hợp giáo dục truyền thông và đưa ra chiến lược cho từng đối tượng con nít.

Cần chuẩn bị can thiệp và phân phối trọn gói (bộ trường - “school - kit”) cho tất tật học trò tiểu học. Một bộ kit là một hộp gồm những thứ cấp thiết để tiến hành một chiến dịch tẩy giun phối hợp giáo dục truyền thông tại cộng đồng, khoảng 500 học sinh. Bao gồm việc cung cấp thuốc tẩy giun, vitamin, mẫu tài liệu giáo dục truyền thông, sách và trò chơi. Mỗi năm sẽ tiến hành 1 lần (1 kit/500 học sinh).

Đối tượng cần tụ tập ưu tiên.

trẻ mỏ:

trẻ con thường có tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cao, nhất là đối với giun đũa. Giun kim tuy không còn phổ biến như trước đây nữa nhưng vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ ở con nít cần được lưu tâm.

trẻ mỏ nông thôn thường đi chân đất hay chạy nhảy nên chú ý nhiễm giun móc.

dân cày (có thể là công nhân nông nghiệp):

Nhất là dân cày ở vùng có tập quán dùng phân tươi, vùng trồng hoa màu, vùng trồng cây công nghiệp, vùng đất bãi ven sông, vùng đất pha cát... Những vùng này thường nhiều loại giun, nhất là giun đũa và giun tóc.

Công nhân, nhân viên (công ty vệ sinh môi trường thành phố):

Do nghề nghiệp xúc tiếp với phân, rác thải nên tuy có bảo hộ lao động nhưng vẫn có nguy cơ nhiễm giun cao.

Công nhân vùng than, công nhân làm đồ gốm:

Do tiếp xúc với đất, với đất pha than nên dễ nhiễm giun đũa, giun móc, giun mỏ.

Những người có tập quán, thói quen không đảm bảo vệ sinh:

Như ăn gỏi cá - tôm- cua, ăn cua nướng, ăn thịt tái, ăn tiết canh... dễ nhiễm sán lá, sán dây, giun soắn…

Artikel Terkait

Back To Top