Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Rotavirus

Rotavirus

Rotavirus thuộc giống Reovirus họ Reoviridae gây nhiễm trùng đường hô hấp và đường tiêu hóa. Rotavirus gây bệnh đi tả nặng và đe dọa tính mạng trẻ thơ dưới 2 tuổi trên toàn thế giới. Virus Norwalk rưa rứa nhưng nhỏ hơn Rotavirus cũng gây bệnh tiêu chảy nhưng ở trẻ thơ lớn tuổi và người trưởng thành.

ĐẶC ĐIỂM VIRUS HỌC

Hình 1 Rotavirus dưới kính hiển vi điện tử

Đặc điểm về cấu trúc

Rotavirus được gọi tên như thế vì có dạng tròn như bánh xe kích tấc hạt virus là 65 -70 nm. Axit nucleic là ARN hai sợi, được chia thành 11 đoạn nằm ở trung tâm của hạt virus, đường kính 38nm được bao bọc bởi hai lớp capsid. Capsid đối xứng hình khối gồm capsid trong và capside ngoài. Các capsome của lớp trong xếp theo hình căm và kéo nối

các capsome của lớp ngoài tạo nên hình vòng bởi thế các virus này mới có tên là rota (Rota = bánh xe).

Hình 2. Cấu trúc của hạt Rotavirus

Đặc điểm về kháng nguyên

Hai lớp capsid của virus mang đặc điểm kháng nguyên riêng biệt. Lớp capsid ngoài mang tính kháng nguyên đặc hiệu typ. Lớp capsid trong mang kháng nguyên đặc hiệu nhóm.

Rotavirus gây bệnh cho người và các Rotavirus gây bệnh cho động vật có kháng nguyên hao hao nhau nhưng không có mối can dự về mặt kháng nguyên với các virus thuộc họ Reoviridae.

Rotavirus gây bệnh cho người gồm có 6 typ huyết thanh. Lúc nhiễm typ huyết thanh nào thì đáp ứng kháng thể cao với typ đó và chỉ có đáp ứng từng phần với các typ khác.

Đặc điểm nhân lên và khả năng gây bệnh

Rotavirus vào cơ thể người và nhân lên chính yếu ở niêm mạc tá tràng. Chúng còn gây ỉa chảy ở lợn con, bò sơ sinh hoặc khỉ sơ sinh. Người ta có thể nuôi cấy Rotavirus ở nuôi cấy tế bào ruột bào thai người, thận bào thai lợn. Sự nhân lên của virus có thể phát hiện bằng miễn nhiễm huỳnh quang và miễn dịch hiển vi điện tử, nhưng hiệu ứng tế bào bệnh lý không có hoặc tối thiểu.

Sức đề kháng

Virus bị bất hoạt chóng vánh khi bị xử lý bằng EDTA (ethylendiamintetracetic acid). Chúng dễ bị bất hoạt ở pH nhỏ hơn 3 và lớn hơn 10, nhưng có sức đề kháng tốt với với clo và ete. Chúng bền vững sau nhiều ngày ở trong phân ở nhiệt độ thường.

CƠ CHẾ SINH BỆNH

Rotavirus nhân lên trong liên bào nhung mao ruột non phá hủy cấu trúc liên bào và làm cùn nhung mao ruột non. Tế bào hâp thu trưởng thành của nhung mao trợ thời bị thay thế bởi những tế bào chưa trưởng thành không thể thu nhận hữu hiệu đường và thức ăn, gây bài xuất nước và chất điện giải ở ruột non, dẫn tới ỉa chảy thẩm thấu do kém thu nạp. Sự tiếp thu thức ăn trở thành bình thường lúc các nhung mao ruột tái sinh và các tế bào nhung mao trưởng thành.

KHẢ NĂNG GÂY BỆNH

tiêu chảy nghiêm trọng và sốt, đôi khi có nôn là một hội chứng thông thường do Rotavirus gây nên ở trẻ nhỏ dưới 2 tuổi, đặc biệt là trẻ con bú sữa mẹ. Sinh thiết cho thấy niêm mạc ruột non là chỗ nhân lên chính của virus. Virus thải ra trong phân tối đa trong 4 ngày đầu của chứng bệnh nhưng người ta có thể phát hiện virus 7 ngày sau khi bị tiêu chảy. Trong nhiễm trùng thí điểm ở khỉ và lợn con, sự nhân lên của virus và những thuơng tổn bệnh lý xảy ra ở những tế bào cuả tuốt tuột ruột non, nhưng đại tràng và những cơ quan khác không bị nhiễm virus.

Bệnh có thể xảy ra từ hình thức nhiêm trùng không biểu đạt đến tiêu chảy vừa, đi tả nghiêm trọng, có thể chết. Bệnh thường khởi phát đột ngột. Nôn mửa trước khi tiêu chảy xảy ra trên 80% con nít bị bệnh, khoảng 1 phần 3 con trẻ nằm viện có nhiệt độ trên 39 0 C. Bệnh thường kéo dài từ 2 - 6 ngày. Dịch nhầy thường thấy trong phân nhưng bạch huyết cầu và hồng cầu tìm thấy ít hơn 15% trường hợp. Nhiễm Rotavirus cũng thường cho thấy những triệu chứng đường hô hấp, sốt, nôn, rồi ỉa chảy. Nhiễm trùng Rotavirus đặc biệt nghiêm trọng và có thể đưa đến tử vong ở trẻ nít suy miễn nhiễm.

DỊCH TỄ HỌC

Nhiễm Rotavirus xảy ra khắp nơi trên thế giới. Trong khoảng 3 tuổi đầu, mỗi con trẻ bị nhiễm Rotavirus ít ra một lần. Ở các nước ôn đới nhiễm trùng xảy ra ở những tháng lạnh về mùa đông. Ở nước ta cũng như các nước nhiệt đới bệnh xảy quanh năm, tần số tăng lên ở các tháng mát trời và mưa lạnh: 10, 11, 12. Rotavirus là duyên cớ quan yếu nhất gây đi tả mất nước nghiêm trọng ở trẻ nhỏ và trẻ dưới 3 tuổi ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển và chiếm từ 30 - 50 % các trường hợp đi tả cân nằm viện hoặc cần bù dịch hăng hái.

CHẨN ĐOÁN PHÒNG thể nghiệm

Xác định virus

Bệnh phẩm: Lấy phân bệnh nhân trong tuần lễ đầu của bệnh hoặc hút dịch tá tràng.

Kỹ thuật xét nghiệm: Quan sát hạt virus trực tiếp ở dưới kính hiển vi điện tử cho thấy có dạng hình tròn như bánh xe (xem hình 1 ở phần đầu của bài). Cũng có thể phát hiện virus trực tiếp từ bệnh phẩm bằng thí nghiệm ngưng kết hạt latex, ngưng kết hồng cầu tiêu cực. Kỹ thuật miễn nhiễm liên kết men (ELISA) cũng được dùng để phát hiện Rotavirus ở mẫu nghiệm phân. Kỹ thuật phân tử điện di ARN của virus từ mẫu nghiệm phân trên gel polyacrylamid cho phép phân biệt các chủng Rotavirus gây bệnh ở người.

Chẩn đoán huyết thanh

Bệnh phẩm là máu bệnh nhân

dùng các phản ứng miễn nhiễm kết liên enzyme (ELISA), miễn nhiễm phóng xạ, phản ứng miễn dịch huỳnh quang để phát hiện kháng thể IgG trong máu bệnh nhân. Tuy nhiên, chẩn đoán huyết thanh ít có giá trị cho chẩn đoán lâm sàng.

đề phòng VÀ ĐIỀU TRỊ

Bệnh xảy ra ngay ở các nước phát triên có phương tiện y tế hiện đại và cung cấp đầy đủ nước sạch nên chẳng thể đề phòng bằng biện pháp vệ sinh đơn thuần. Những tiên bộ trong một số vaccine sống giảm độc cho phép hy vọng có thể đề phòng bằng vaccine trong thời gian tới.

Điều tri bằng cách cho uống oresol (ORS) để bù nước và chất điện giải. Chỉ một số trường hợp đến bệnh viện quá nặng mới phải truyền dịch.

Back To Top