Ung thư và điều trị theo y học cựu truyền
Đại cương ung thư theo YHHĐ.
Ung thư là một nhóm tế bào phát triển vô tổ chức trở nên vật ngoại lai, ức chế và phá hủy tế bào thường nhật của thân thể. Ngày nay, nhờ những thành quả nghiên cứu của miễn nhiễm học , của sinh vật học phân tử và kỹ nghệ sinh vật học, người ta hy vọng sẽ điều trị ung thư bằng miễn nhiễm trị liệu.
Sự nảy sinh, phát triển ung thư thường đi đôi với suy giảm và thiếu hụt miễn dịch. Khả năng miễn nhiễm của thân thể suy sụp còn có thể do dùng các thuốc ức chế miễn dịch quá lâu, hoặc do phản ứng qúa mẫn muộn. Số lượng tế bào tăng sinh nhưng chức năng của tế bào B và T đều bị rối loạn ( đẵn là tế bào T).
Kháng nguyên gây ung thư:
Kháng nguyên ghép (Ludwig - Gross, 1943).
Kháng nguyên bào thai: do các tế bào ác tính trưởng thành sinh sản ra (bản tính là protein do tế bào bào thai tiết ra).
AFP ( - feto - protein) do gan bào thai sinh sản. Trong K gan nguyên phát, lượng AFP rất cao (50mg/l ). hiện thời, AFP được nhiều nước (Trung Quốc - Mỹ - Việt Nam) dùng để chẩn đoán đánh giá thời đoạn và tiên đoán của ung thư gan.
Kháng nguyên vi rút.
ngoại giả, gần đây người ta phát hiện 1 số kháng căn nguyên gen qui định, kháng nguyên tự phát, kháng nguyên là glycolipid gặp ở u melanoma, carcinoma bóng đái và một số kháng nguyên là nhóm máu bị biến chất.
Kháng thể:
Tương ứng với kháng nguyên có các kháng thể đặc hiệu do limphoT gây độc và limphoB tiết ra.
Các chất không đặc hiệu do limpho K (Killer: diệt) tiết ra như tế bào NK (Natural Killer).
Đại thực bào, lympho T gây độc (TC) xuất hiện trong miễn nhiễm tế bào. Đồng thời có sự hiện diện của một chất hòa tan interleukin 2 do lympho cảm ứng tiết ra. Lympho T có hai loại dưới nhóm, hệ trọng với nhau:
Nhóm 1: lympho T giúp đỡ, cảm ứng (giúp tế bào B sản xuất kháng thể và cảm ứng tế bào ức chế).
Nhóm 2: lympho T ức chế, gây độc (ức chế tế bào B sản xuất kháng thể và trung gian cho gây độc tế bào).
Nhóm 1/nhóm 2 là CD4 /CD8 tạo thành thế cân bằng và điều hoà miễn nhiễm.
Lym pho B được gọi là miễn nhiễm dịch thể. Trên thực nghiệm của Ge’rald (973 ) tìm thấy 3 típ với cơ chế hủy hoại K:
Phá vỡ tế bào đích bằng bổ thể làm tan CDL (complement dependent lysis).
Kháng thể gây độc tế bào.
Bất động tế bào.
Lympho K còn gọi là tế bào Null, kháng thể đóng vai trò trung gian giữa tế bào K và tế bào đích.
Tế bào NK tự nhiên là tế bào diệt tự nhiên có trong miễn nhiễm thiên nhiên; nó phản ứng với nhiều loại tế bào K, tiêu diệt tế bào đích, chịu ảnh hưởng của interferon gamma và prostaglandin E2. NK được coi như cơ chế đề kháng rất quan yếu.
Đại thực bào là loại tế bào đơn nhân đức tủy xương trưởng thành tung vào máu, có ở nhiều tổ chức cơ quan khác nhau. Đại thực bào diệt tế bào đích bằng cách tiết các men tiêu đạm (phosphataza axit, tetaglycoronidaza).
Điều trị K bằng miễn dịch trị liệu:
Người ta dùng kháng thể đơn (clôn), interferon, interleukin 2 và một số lymphokin khác.
Interferon là protein do đáp ứng miễn dịch vi rút tiết ra, có interferon thiên nhiên và tái tổ hợp 3 loại , và nhưng interferon được áp dụng nhiều hơn.
Interleukin 2 là loại lymphokin do limpho bào T tiết ra, là yếu tố tăng trưởng tế bào T (T - cell growth factor), loại kháng thể này có vai trò quan trọng là:
đả kích tế bào đích.
Kích thích lympho B.
Kích thích tế bào NK, tế bào diệt thiên nhiên. Cả hai loại interleukin 2 tự nhiên và tái tổ hợp đều đã được dùng trong điều trị AIDS nhưng chưa thấy hiệu qủa.
Quan niệm ung thư theo YHCT:
y khoa cổ truyền thường diễn tả ung thư trong các phạm trù “ nham chứng, nhú thạch, thạch thư”. Người xưa cho rằng căn do gây ra bệnh lý “nham chứng” là do sự uất kết - trữ của 4 yếu tố: khí, huyết, đàm và thực. Trong đó, huyết khí uất kết là nguyên do đốn. Bốn nhân tố trên có thể kết hợp có thể xen kẽ hoặc riêng lẻ. tỉ dụ: tử cung nham cốt yếu là liên can đến nguyên do huyết ứ; phế nham cốt tử là liên quan đến khí trệ; hạch nham cốt hệ trọng đến “đàm”; phúc nham cốt tử hệ trọng đến thực tích - huyết ứ. bởi vậy trên lâm sàng điều trị nham chứng thường tập kết điều trị bản tính của bệnh: huyết ứ thì hoạt huyết tiêu ứ, khí trệ thì hành khí kiện tỳ, đàm uất thì trừ đàm giải uất, thực tích thì tiêu thực đạo trệ. Nếu có bội nhiễm là nhiệt độc thì phải thêm thuốc thanh nhiệt giải độc. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản là nâng cao chính khí nghĩa là tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Ngoài ra tùy thuộc vào thể cơ thể của người bệnh mà phối hợp các thuốc nhuyễn kiên - tán kết.
Gần đây các nhà YHCT Trung Quốc đều cho rằng: điều trị nham chứng cần phải kết hợp giữa Đông y với Tây y theo nguyên tắc chung như sau:
Phải điều trị sớm và hăng hái.
Phải phối hợp hoá học trị liệu hoặc phóng xạ trị liệu hoặc giải phẫu trị liệu.
Tùy theo tạng phủ bị bệnh và thời kì mắc bệnh dài hay ngắn mà quyết định điều trị phẫu thuật sớm và triệt để, sau giải phẫu thì phối hợp dùng thuốc thảo mộc hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn.