Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021

Biện chứng luận trị ngải tư bệnh (HIV, AIDS)

Biện chứng luận trị ngải tư bệnh (HIV, AIDS)

Đại cương.

Theo YHHĐ:

Theo YHHĐ, AIDS là tổng hợp các triệu chứng gây ra bởi sự suy giảm hệ thống miễn dịch, đặc biệt do độc tố ngải tư bệnh (HIV).

Năm 1981, người ta phát hiện ra thực chất của bệnh là một loại bệnh lây truyền phạm vi rộng, truyền nhanh, bệnh biến đa dạng, phòng và điều trị đều không kết quả rõ, bệnh phát triển toàn cầu, tỷ lệ tử vong cao ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế từng lớp.

Trên lâm sàng, HIV gây tổn hại cốt yếu ở hệ thống miễn dịch của thân, xuất hiện tính chất đặc thù liên tục sự suy tổn miễn nhiễm tế bào, từ đó dẫn đến nhiều cơ quan, tạng phủ nảy sinh điều kiện tiện lợi cho nhiễm trùng và ác tính hóa. Trong lâm sàng, người ta có thể chia ra 4 loại: thể phế, thể thần kinh trung ương, thể vị trường, thể phát sốt không rõ nguyên do.

Cơ chế bệnh sinh của ngải tư bệnh là thân người sau khi đã cảm nhiễm HIV thì hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc khuyết hãm độc tố HIV và HIV thừa cơ xâm lấn tế bào T hỗ trợ (TH, TCD4) tạo thành một lượng lớn tế bào T bị cảm nhiễm và phá hoại (vỡ hạt); nghiêm trọng hơn là làm tổn hại đến công năng miễn dịch của thân, làm cho sức đề kháng của cơ thể sút giảm đối với ắt các tác nhân gây bệnh( nhiễm trùng, vi khuẩn, ký sinh trùng); từ đó phát sinh bệnh cơ hội do viêm nhiễm và thũng lưu (ác tính hóa).

Theo y khoa cổ truyền:

Trung y căn cứ vào đặc điểm bệnh biến qui về các phạm trù chứng bệnh “Thấp ôn “, “Ôn dịch “, “Hư tổn “. căn nguyên gây bệnh là người bệnh lao động quá sức, ham muốn quá độ dẫn đến thương tổn thận tinh, dịch độc tà khí tự thâm nhập vào thân thể; hoặc tỳ vị bất kiện, sinh hóa chi nguyên, khí - huyết bất túc, dịch độc cũng có thể thừa cơ mà nhập. Thời kỳ đầu chính hư tà thực, phần đông trình diễn.# triệu chứng của tà phạm phế; tiếp sau là tà khí vào sâu có thể thấy vệ khí, doanh khí đồng bệnh, thậm chí là tà hãm tâm doanh. Do ở dịch độc thao liệt chính khí tiêu hao lớn, khí - huyết tân dịch đều bất túc nên có thể xuất hiện các loại thực chứng của: thận hư, tỳ hư, phế hư khác nhau.

Chính bạch đái dễ dẫn đến ngoại tà, tà độc phục cảm và dẫn đến chính hư tà thực thì bệnh tình càng trở thành nghiêm trọng và dẫn đến tử vong.

Chẩn đoán.

Dựa vào bệnh sử:

Có xúc tiếp với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc có quan hệ dục tình với người bị nhiễm HIV/AIDS hoặc là có dùng các phương tiện truyền máu, truyền dịch, dịch thay thế máu.

Những triệu chứng chính khi cảm nhiễm cấp tính:

Có phát sốt, bất thích, bì chẩn, đau khớp và toàn thân nổi hạch limpho. Sau đó triệu chứng biến mất, bệnh nhân chuyển thành thể vô chứng trạng, kháng thể kháng HIV, dương tính. Thời kỳ này có thể kéo dài 2 - 10 năm, trong đó khoảng 25% người bệnh có thể nảy ngải tư bệnh với thể hiện là phát sốt, thể trạng giảm sút, mỏi mệt vô lực, giữa đêm tự hãn, ho khái thấu, tiêu chảy mãn tính khoảng 1 tháng trở lên, miệng có mụn lở loét, toàn thân phát hạch sưng to, bì chẩn (nổi mụn ngoài da), nghiêm trọng hơn là vỡ mủ lở loét. Xét nghiệm máu thấy: tế bào limpho giảm thấp, tế bào bạch cầu giảm thấp, thiếu máu... Thời kỳ sau, gọi là thời kỳ toàn phát, có thể xuất hiện tuốt các triệu chứng nói trên tạo điều kiện thuận tiện cho những viêm nhiễm và những u ác tính phát triển.

Kiểm tra xét nghiệm kháng thể kháng HIV trong huyết thanh:

Tế bào limpho số lượng thấp, tỉ lệ CD4 / CD8 < 1.<="p">

Xét nghiệm miễn nhiễm gắn men ELISA (+) (enzyme linked immunosorbert assay).

Western Blot (+) phát hiện nhiều loại kháng nguyên khác nhau do trọng lượng phân tử (P 24 , gp 41 , gp 120 /160).

Tế bào CD4 giảm thấp, hạch limpho sưng to ở toàn thân, triệu chứng bệnh lý của hệ thống thần kinh thể hiện rõ, xuất hiện sút giảm về trí óc và năng lực, chức năng vận động của hệ tâm thần bị chướng ngại.

Biện chứng và phương trị.

Tà phạm vệ khí:

Triệu chứng chính là phát sốt, đau đầu, nôn khan hoặc là mửa, ăn kém, mỏi mệt, vô lực, đau họng khái thấu, ỉa chảy, phúc tả lưỡi nhợt, rêu trắng nhờn, mạch phù hoạt sác.

Phương pháp điều trị: thanh nhiệt - giải độc - kiện tỳ lợi thấp.

Phương thuốc: “Ngân kiều tán” + “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm.

Kim ngân hoa

15g

Liên kiều

10g

Kinh giới

9g

Bạch khấu nhân

10g

Cát cánh

6g

Bán hạ

9g

Trúc diệp tâm

6g

Hạnh nhân

9g

Hậu phác

6g

Đạm đậu xị

12g

Hoắc hương

9g

Sinh cam thảo

6g

song song cho uống “cam lộ tiêu độc đan” gia giảm (9g chia 2 lần: sáng, tối). Nếu ăn uống kém hoặc là sau khi ăn không tiêu hóa được thì thêm: sơn tra, mạch nha, cốc nha, mỗi thứ đều 10g. Nếu ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khát nửa đêm về sáng, sốt giảm thì có thể dùng “uy tiên thang” gia giảm.

Khí doanh (huyết) lưỡng phạp:

Bệnh nhân sốt cao liên tiếp không lui, khái huyết, nôn ra máu, hoặc là phát ban lờ mờ, đầu thống, loạng quạng, phiền táo, thất miên; hoặc là mỏi mệt, vật vã, ỉa lỏng nát; hoặc là ỉa ra máu hoặc là tiện bế, lưỡi dáng, rêu vàng khô hoặc là xám đen, mạch huyền sác.

Phương pháp điều trị: khí doanh lưỡng thanh - lương huyết giải độc.

Phương thuốc: “Thanh ôn bại độc ẩm” gia giảm, hợp dụng “Tử tuyết đan”.

Sơn chi

10g

Hoàng cầm

10g

Hoàng liên

6g

Chi mẫu

10g

Sạ can

10g

Sinh địa

5g

Đan bì

10g

Xích thược

10g

Huyền sâm

20g

Liên kiều

12g

Trúc diệp

5g

Cam thảo

5g

Thủy ngưu giác phấn ( bột sừng trâu ) 3g , hoà với nước sôi uống.

Sinh thạch cao 60g , sắc trước.

“Tử tuyến đan” dùng thêm 0,5g uống trong một ngày.

Nếu như thần chí không minh mẫn hoặc là lúc tỉnh, lúc huyền hoặc là loạn ngôn, nói sảng, co giật có thể dùng thêm “An cung ngưu hoàng hoàn phối hợp với “câu đằng ẩm”.

Bài thuốc “câu đằng ẩm” có các vị thuốc sau:

Câu đằng

10g

Địa long

10g

Đan bì

10g

Toàn yết

10g

Đẳng sâm

15g

Thiên ma

10g

Bản lam căn

15g

Xích thược

10g

Linh dương giác 0,10g dạng bột uống ngoài. Mỗi ngày sắc một thang chia làm hai lần uống.

Ngoài ra có thể uống thêm “An cung ngưu hoàng hoàn” dùng từ 1 - 2 viên một lần, mỗi ngày uống từ 2 - 3 lần.

Phế khí âm lưỡng hư:

Biện chứng: phát sốt, ho khan, vô đàm hoặc đàm có máu khí đoản, hung thống, khẩu can hầu thống, tư hãn, rêu lưỡi vàng mỏng hoặc hóa lục hoặc không rêu, mạch tế sác.

Phương pháp điều trị: bổ khí ích âm.

Phương thuốc: “Sinh mạch tán” gia vị.

Thái tử sâm

30g

Mạch đông

15g

Ngũ vị tử

10g

Thiên hoa phấn

10g

Hạnh nhân

10g

Sinh địa

15g

A giao

12g (hoà vào nước uống).

Gia giảm:

Nếu sợ lạnh, đau đầu thì gia thêm: nam sài hồ 10g, cát căn 15g.

Khí đoản ngực bĩ nặng thì gia thêm: sơn dược 10g, qua lâu vỏ 10g.

Ho nhiều thì gia thêm: hắc chi ma 20g, tri mẫu 10g.

Nếu tiếp chuyện kỳ nhiệt thì gia thêm : tri mẫu 10g, địa cốt bì 15g.

Nếu loa lịch ác hạch thì gia thêm: hạ khô thảo 10g, huyền sâm 10g, hoàng dược tử 10g, miêu qua thảo 15g, mẫu lệ 15g.

Tỳ hư huyết hao:

Triệu chứng: phúc tả ỉa lỏng nước hoặc dịch nhày là niêm dịch, mửa nôn khan, diện sắc bạch trắng vô hoa, gầy gò vô lực, bụng đau, ăn kém, khí đoản, lưỡi nhợt hình bệu, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.

Phương pháp điều trị: bổ khí dưỡng huyết - kiện tỳ chỉ tả.

Phương dược: hợp pháp “qui tỳ thang” và “tứ quân tử thang”.

Sinh tây sâm

10g

Bạch truật

10g

Vân linh

15g

Hoàng kỳ

15g

Đương qui

15g

Sơn dược

15g

Sao bạch thược

12g

Khiếm thực

15g

Hồng táo

9 quả

Khương bán hạ

10g

Sao biển đậu

10g

Sinh cam thảo

6g

Gia giảm:

Nếu tiết tả lâu ngày thì gia thêm: kha tử nhục 10g, liên tử 15g, nhục đậu khấu 10g.

mửa nhiều thì gia thêm: trúc nhự 10g.

Nếu ho nhiều, khí đoản, gầy gò là phế tỳ lưỡng hư thì dùng thêm “lục quân tử thang” và “sinh mạch tán” gia giảm.

Nếu trên cơ sở tỳ hư lại kèm thêm thận tinh bất túc thì phải hợp phương “tứ quân tử thang”, “tứ thần hoàn” Đồng thời “kim quỹ thận khí hoàn” hoặc “thập toàn đại bổ”.

Thận tinh hao phí:

tiếp tục kỳ nhiệt hoặc triều nhiệt, gầy gò vô lực, khái thấu khí đoản, tự hãn, miệng khô lưỡi ráo, lưng gối đau mỏi, đàm ho có máu, lưỡi đỏ không rêu, mạch tế sác.

Phương pháp điều trị: tư âm giáng hỏa.

Phương thuốc: “Tri bá địa hoàng thang” gia giảm.

Tri mẫu

15g

Sinh địa

15g

Sơn thù

10g

Đan bì

10g

Hoàng bá

10g

Ngũ vị tử

10g

Sơn dược

15g

Phục linh

15g

Trạch tả

10g

Mạch đông

10g

Gia giảm:

Nếu lưỡi nhợt rêu trắng mỏng, mạch trầm tế thì gia thêm: bột tử hà sa 3g, thỏ ty tử 15g, nhục dung 10g.

Nếu triều nhiệt tư hãn nặng thì thêm: tần cửu 10g, trích miết giáp 10 (sắc trước).

Nếu bì phu nổi mụn ngứa, lở loét thì gia thêm: địa phụ tử 10g, thổ phục linh 10g.

Lạnh giá, co giật thì gia thêm: linh dương giác 2g (xung).

Nghiệm phương:

Tử hoa địa đinh 30g, hãm trà uống. Chỉ định dùng cho những người xét nghiệm huyết thanh có HIV1 (+).

Bản lam căn 50g, hạ khô thảo 30g, sắc hãm thay trà. Chỉ định dùng cho người xét nghiệm có HIV huyết thanh (+) mà chưa phát bệnh AIDS.

“Hoàng kỳ chích cam thảo thang”: hoàng kỳ 20g, cam thảo 10g, tử thảo 15g, đan sâm 15g. Sắc nước uống, mỗi càng ngày càng thang.

Tinh hoa lâm sàng (tuyển lựa).

Theo Mag - Wolia Goh (Mỹ):

Tác giả đã cho 130 bệnh nhân AIDS uống thuốc thảo mộc dạng “trà thuốc”, trong đó: 43 bệnh nhân uống trong thời kì dưới 3 tháng; 33 bệnh nhân uống từ 3 - 5 tháng, 27 bệnh nhân uống từ 6 - 24 tháng (có 19 bệnh nhân bỏ thuốc). Số bệnh nhân còn lại tiến triển tốt: tỷ lệ viêm nhiễm giảm thấp, trọng lượng tăng; tỷ lệ tế bào CD4/CD8 tăng lên (thông thường CD4/CD8 = 1,91); số lượng hồng cầu tăng rõ rệt.

Theo ít của Migamoto - Koji (tác giả Mỹ, 1996):

Dùng bài thuốc “Tiểu nam sài hồ” điều trị cho 40 bệnh nhân đồng tính luyến ái bị nhiễm HIV (không có triệu chứng lâm sàng 30 bệnh nhân, có triệu chứng na ná AIDS 4 bệnh nhân, AIDS 6 bệnh nhân) thấy có hiệu quả 65%. Các tác giả cho rằng: dùng “tiểu nam sài hồ thang” có thể điều trị rộng rãi cho bệ nh nhân nhiễm HIV trước khi phát bệnh (tài liệu của Ngô Bá Bình - Mỹ Quốc dùng thuốc thảo mộc điều trị AIDS tiến triển).

Biện chứng luận trị AIDS bằng thuốc Trung y:

Theo mỏng của Vương Kỳ - tạp chí Trung y (Thượng Hải, 4/1995), từ tháng 2 năm 1992 đến 9 năm 1993, tác giả vận dụng thuốc Trung y để điều trị 5000 lần cho bệnh nhân AIDS đã thu được kết quả nhất quyết. Tác giả cho rằng: thuốc Trung y điều trị AIDS có những ưu thế rõ ràng.

Phương pháp:

Hư tắc bổ chi hoãn trị kỳ bản, lấy bổ khí kiện tỳ là chủ dùng bổ tỳ ích khí phục phương (xung tế); uống dạng tễ; mỗi ngày 1 tễ, chia 3 lần, uống trong 3 tháng.

Thực tắc tả chi, cấp trị kỳ tiêu tuỳ chứng chọn phương.

Bổ hư tả thực, tiêu bản kiêm trị. Đối với hư thực thác tạp dùng pháp tiêu bản đồng trị, dùng ích khí thanh nhiệt kiêm táo thấp, hoạt huyết lương huyết phục phương chi trị đã thu được hiệu qủa nhất mực.

Theo báo cáo của Tô Kỳ, dùng thuốc Trung y điều trị cho 30 bệnh nhân AIDS tại một số nước Phi châu. Sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và xét nghiệm, trong đó triệu chứng tương đương trùng hợp 6 bệnh nhân, phát bệnh AIDS 24. căn cứ vào biện chứng YHCT tác giả chia số bệnh nhân làm 4 nhóm:

Nhóm phế vị âm hư: 11 bệnh nhân; chọn dùng “sâm linh bạch truật tán”, “bách hợp cố kim thang” gia giảm hoặc dùng “phù chính hợp tễ” gia giảm.

Nhóm tỳ vị hư tổn: 7 bệnh nhân; chọn dùng “bổ trung ích khí thang”, “tiểu bắc sài hồ thang”, “ôn đởm thang” gia giảm và đều có thể dùng thêm “hương sa quân lục hoàn” và “nhân sâm qui tỳ hoàn”.

Nhóm tỳ thận lưỡng hao: 10 bệnh nhân; chọn dùng “tứ quân tử thang”,“tứ thần hoàn” gia giảm hoặc “phù chính hợp tễ” gia giảm.

Nhóm nhiệt thịnh đàm ẩm: 2 bệnh nhân; chọn dùng “an cung ngưu hoàng hoàn”, “câu đằng ẩm” gia giảm.

quơ các bệnh nhân trên đều được ngừng thuốc thuốc tây. Hoàn toàn điều trị theo biện chứng YHCT hoặc cho dạng thuốc sắc nâng cao chính khí phối hợp thành phần cốt tử của bài thuốc là: nhân sâm 12g, hoàng kỳ 20g, cam thảo 12g; nếu nhấn mạnh chữa triệu chứng phải thêm: sài hồ 12g, cương tà 12g, phòng phong 15g. Tuỳ chứng gia giảm mỗi ngày 1 thang sắc lấy 200ml nước chia 2 lần uống (sáng, chiều).

Kết quả: dùng từ 6 - 230 ngày, triệu chứng một số bộ phận được cải thiện, máu thường qui chuyển biến tốt.

Tác giả cho rằng: thời kỳ đầu của bệnh chính hư tà thực phối hợp phù chính và trừ tà, căn cứ vào thể chất, có thể lấy trừ tà làm chủ hoặc phù chính là chủ.

Nếu thực chất bệnh diễn biến phức tạp không thể nhất pháp nhất phương được thì phải ứng dụng linh hoạt tùy theo biện chứng phương trị.

Thời kỳ đầu và thời kỳ giữa thường có triệu chứng: phúc tả khái thấu, nga khẩu sang, phát sốt.

tuổi này quan trọng là phải khống chế triệu chứng: phế kết hạch, ngược tật, nga khẩu sang, bần huyết (thiếu máu).

Tóm lại: đánh giá bản tính bệnh thường dựa vào mạch; dựa vào bộc lộ ở lưỡi. Tuy nhiên, viêm nhiễm là hội chứng thường gặp và cũng thường là căn do dẫn đến tử vong. bởi thế trên lâm sàng cần phân biệt tuổi bệnh hoãn hay cấp, cấp chữa “ tiêu” ( triệu chứng ); hoãn chữa “bản” ( bổ chính khí ). Cần phải cân nhắc và tiên lượng nặng nhẹ, điều trị kịp thời nhằm kéo dài đời sống hoặc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. (Theo tài liệu Tô Thanh Luyện, Trung y tập san Thượng Hải, 1990; 27).

Back To Top