Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Flaviviridae

Flaviviridae

Họ Flaviviridae gồm nhiều virus arbo (Arbovirus: Arthropod - borne viruses), đó là những virus do các loài sâu bọ tiết túc hút máu như muỗi hoặc ve mang và lây nhiễm giữa các động vật có xương sống (kể cả loài người). Các virus arbo muốn truyền bệnh từ động vật có xương sống này sang động vật có xương sống khác phải có môi giới trung gian là sâu bọ tiết túc (trừ những trường hợp không thường nhật). Khi côn trùng tiết túc hút máu động vật đang ở giai đoạn nhiễm virus huyết, virus sẽ nhân lên ở trong cơ thể sâu bọ tiết túc vài ngày (thời gian nung bệnh bên ngoài), nếu sâu bọ tiết túc này đốt động vật cảm thụ khác thì sẽ truyền bệnh cho động vật đó. Các virus này nhân lên trong tế bào các loài côn trùng tiết túc ( muỗi, ve...) nhưng không gây bệnh cho chúng.

Trong các virus thuộc họ Flaviviridae gây bệnh ở Việt Nam thường gặp nhất là virus viêm não Nhật Bản và virus Dengue.

VIRUS VIÊM NÃO NHẬT BẢN

Virus viêm não Nhật Bản (VNNB) là tác nhân gây bệnh viêm màng não- não ở người. Virus VNNB lưu hành ở khu vực Tây yên bình Dương và Đông Nam Á , trong đó có Việt Nam.

Đặc điểm virus học

Virus VNNB thuộc họ Flaviviridae . Virus có hình cầu đường kính từ 30 đến 35nm. Virus chứa ARN một sợi, nucleocapsid đối xứng hình khối. Có một vỏ bọc bên ngoài capsit.

Virus bị mất hoạt lực ở 56 0 C trong 30 phút. Virus bị phá hủy bời ether và desoxycholat Natri.

Virus có thể nhân lên trong phôi gà và trong các nuôi cấy tế bào thận khỉ, thận lợn, thận cừu, thận chuột đất vàng (hamster).

Có nhiều loài động vật cảm thụ tốt đối với virus VNNB như chuột nhắt trắng mới đẻ và trưởng thành, mèo, chó con, ngựa, lợn, dơi và nhiều loài chim.

Virus VNNB có ngưng kết hồng cầu tố, có thể gây ngưng kết hồng cầu ngỗng và hồng huyết cầu gà con 01 ngày tuổi.

Khả năng gây bệnh

Dịch tễ học

Ổ chứa virus VNNB là các loài chim hoang dã và nhiều loài động vật khác như lợn, chó, trâu bò, ngựa... Ở Việt Nam đã phân lập được virus VNNB từ chim liếu điếu ( Garrulax perspicollatus ) và lợn.

côn trùng tiết túc môi giới là muỗi Culex tritaeniorhynchus , Culex pipiens , Culex gelidus ... Ở Việt nam đã tìm thấy virus này ở muỗi Culex tritaeniorhynchus .

Các côn trùng môi giới này có thể gây nhiễm virus cho các loài gia súc và gia cầm, đa số là ở thể ẩn, tuy thế có thể gây ra các vụ dịch viêm não ở gia súc như ngựa, lợn. Các loại gia súc và gia cầm dù ở thể bệnh nào, cũng đều có giai đoại nhiễm virus huyết. Chính thành thử, các loài muỗi hút máu ở tuổi này sẽ là điều kiện gây thành dịch ở người.

Bệnh viêm não Nhật Bản có một tỷ lệ cao ở thể ẩn, tỷ lệ mắc bệnh thể ẩn trên thể nhiễm virus có biểu thị lâm sàng là 300/1 đến 200/1. Bệnh thường xảy ra vào những tháng hè thu, ở mọi lứa tuổi, nhưng đẵn là ở con nít.

Khả năng gây bệnh ở người

Khi muỗi mang virus đốt người, người sẽ mắc bệnh, phần đông là thể ẩn, một số trường hợp mắc bệnh nhẹ chỉ bộc lộ: nhức đầu, sốt nhẹ và khó chịu trong vài ngày.

Thể điển hình là viêm não, thời kỳ ủ bệnh từ 4 đến 21 ngày. Bệnh bắt đầu từ từ hoặc đột ngột với sốt cao 39- 40 0 C, nôn, nhức đầu dữ dội. Về sau xuất hiện các triệu chứng thần kinh, thần kinh và thực vật. Sốt cao kèm theo cứng gáy, co giật, rối loạn trương lực cơ, liệt vận động, rối loạn hô hấp, rối loạn ý thức, hôn mê... Virus gây thương tổn rất trầm trọng ở vỏ não, các hạch đáy não, ở vỏ tiểu não và sừng tủy. Tỷ lệ tử vong cao. Sau khi khỏi bệnh, nếu có di chứng thường là di chứng thần kinh như thiểu năng thần kinh, thần kinh sa sút, giảm trí tuệ.... và di chứng tâm thần như liệt, động kinh...vv...

Chẩn đoán virus học

Để chẩn đoán xác định bệnh viêm não Nhật Bản phải căn cứ vào phân lập virus và chẩn đoán huyết thanh vì hình ảnh lâm sàng rất có thể lầm lẫn với nhiều tác nhân virus gây viêm não khác.

Phân lập virus

Bệnh phẩm là máu của bệnh nhân trong tuổi sốt hoặc là não của xác được tiêm vào não của chuột nhắt trắng mới đẻ 1 - 2 ngày tuổi (chuột ổ) là những súc vật rất mẫn cảm với các Arbovirus. Theo dõi 8-10 ngày, thấy chuột liệt và chết. Sau đó định loại virus bằng phản ứng trung hòa với các kháng huyết thanh mẫu trên chuột ổ.

Có thể phân lập virus trên nuôi cấy tế bào muỗi C6/36 hay AP-61.

Chẩn đoán huyết thanh

Có thể dùng phản ứng ngăn ngưng kết hồng huyết cầu, phản ứng phối hợp bổ thể. Cần lấy huyết thanh bệnh nhân 2 lần cách nhau 10 - 14 ngày để tìm động lực kháng thể. Nếu hiệu giá kháng thể trong huyết thanh lấy lần thứ hai tăng lên rõ rệt mới kết luận là nhiễm virus viêm não Nhật bản.

hiện, thường dùng phản ứng MAC ELISA để phát hiện kháng thể IgM. Phản ứng này có độ nhạy cao, độ đặc hiệu cao và chỉ lấy máu một lần.

Phòng bệnh và chữa bệnh

Phòng bệnh chung

diệt ổ chứa.

Tiêu diệt côn trùng trung gian truyền bệnh: Diệt muỗi và bọ gậy bằng hóa chất, bằng tác nhân sinh vật học,...

Đối với người bệnh và người lành phải nằm màn, tránh muỗi đốt.

Phòng bệnh đặc hiệu

Dùng vaccine phòng bệnh viêm não Nhật bản. Hiện nay ở nước ta đang dùng loại vaccine bất hoạt, dạng nước, tiêm phòng cho trẻ em ở vùng có dịch lưu hành.

Chữa bệnh

Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Chữa các triệu chứng là chính yếu, coi ngó bệnh nhân, nâng cao thể trạng, hạn chế các di chứng.

VIRUS DENGUE

Virus Dengue là tác nhân gây ra bệnh sốt Dengue cổ điển và bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD). Bệnh do virus Dengue gây ra có ở nhiều nơi trên thế giới.

Đặc điểm virus học

Virus Dengue thuộc họ Flaviviridae , gồm có 4 type huyết thanh virus Dengue gây bệnh cho người: Virus Dengue type 1, virus Dengue type 2, virus Dengue type 3 và virus Dengue type 4.

Virus Dengue chứa ARN một sợi, nucleocapsid đối xứng hình khối, có một vỏ bao bọc nucleocapsid. Hạt virus hoàn chỉnh có đường kính khoảng 50nm. Bộ gen của virus dài khoảng 11kb (kilobases), gồm có 3 gen mã hóa các protein cấu trúc là nucleocapsid hoặc protein lõi (C), protein màng (M) và protein vỏ bọc (E), và 7 gen mã hóa các protein không cấu trúc (NS). trật tự mã hóa các protein như sau : 5’- C - prM (M) - E - NS1 - NS2A - NS2B - NS3 - NS4A - NS4B - NS5 - 3’.

Virus mẫn cảm với ether và natri desoxycholat. Nó dễ bị phá hủy bởi nhiệt độ, ngay cả ở nhiệt độ 4 0 C. Virus trong huyết thanh bệnh nhân giữ ở -70 0 C hay dưới dạng đông khô ở 5 0 C có thể tồn tại được 8 - 10 năm. Virus bị phá hủy bởi tia cực tím trong vòng vài phút. Virus bất hoạt bởi focmol và mất hết thuộc tính sinh miễn dịch.

Các tổ chức của muỗi Aedes aegypti hoặc muỗi Toxorhynchites trưởng thành có cảm nhiễm cao nhất với virus Dengue do muỗi là túc chủ tự nhiên của virus Dengue. hiện giờ người ta đã tìm được nhiều loại nuôi cấy tế bào túc trực muỗi có cảm nhiễm cao với virus Dengue như C6/36, AP-61, TRA-284SF.

Virus Dengue có kháng nguyên kết hợp bổ thể và kháng nguyên ngưng kết hồng cầu. Những virus này gây ngưng kết hồng cầu ngỗng và hồng cầu gà con 01 ngày tuổi.

Khả năng gây bệnh

Dịch t ễ học

Ổ chứa virus Dengue cốt là người, động vật linh trưởng (khỉ, vượn, hắc tinh tinh) và muỗi Aedes .

côn trùng tiết túc môi giới là các loài muỗi Aedes , chính yếu là Aedes aegypti , muỗi này thường đẻ trứng ở chổ nước trong và sạch. Muỗi Aedes có thể bị nhiễm virus khi đốt bệnh nhân ở giai đoạn nhiễm virus huyết, virus vào nhân lên ở ống tiêu hóa trong thân thể muỗi và hàm ở tuyến nước miếng để lan truyền cho người và động vật. Tùy theo điều kiện nhiệt độ bên ngoài mà thời gian nung bệnh bên ngoài này dài ngắn khác nhau (thời gian nung bệnh bên ngoài là thời gian virus nhân lên trong cơ thể muỗi). Sau khi hút máu bệnh nhân, nếu nhiệt độ bên ngoài là 22 0 C thì sau 9 ngày là có thể truyền bệnh.

Như vậy người và vài loại khỉ ở một đôi vùng và muỗi hợp lại thành vòng nhiễm virus, nhờ đó mà virus Dengue tồn tại trong thiên nhiên.

Bệnh SXHD chiếm một vị trí quan yếu trong các bệnh nhiễm trùng gây dịch ở vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, dịch SXHD xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở các vùng đông dân cư ở thành phố, đồng bằng và ven biển. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng phát triển mạnh vào những tháng mưa nhiều và nóng. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng đối tượng cảm thụ chính yếu là trẻ nít.

Khả năng gây bệnh ở người

Khi muỗi mang virus (đã đủ thời gian nung bệnh bên ngoài) đốt người thường nhật, virus xâm nhập cơ thể qua chỗ đốt. Virus tiêm nhiễm và nhân lên trong các tế bào của hệ thống mono - đại thực bào, virus lưu hành trong thân thể ở các tế bào mono, các đại thực bào... Virus xâm nhiễm gây thoái hóa tế bào trong các tổ chức của thân như gan, lách, thận, cơ, não, tổ chức kết liên, niêm mạc ruột,...

Virus Dengue có thể gây ra ở người các bệnh sau:

Sốt Dengue cổ điển

Sau 1 thời gian ủ bệnh từ 3 - 14 ngày bệnh bắt đầu đột ngột bằng sốt có rét run, nhức đầu, đau ở hố mắt khi cầu mắt chuyển di, đau lưng, đau cơ và khớp. Sốt tăng nhanh lên 40 0 C. Các hạch bạch huyết ở cổ, ở mõm trên ròng rọc và ở bẹn thường sưng to. Sau 48 - 96 giờ hạ sốt mau chóng và ra mồ hôi nhiều, trong cùng thời kì này xuất hiện ngoại ban đặc biệt dạng sởi, thoạt tiên khu trú ở các đầu chi, sau đó lan ra toàn thân. Những trường hợp không có biến chứng thường khỏi. Thời kỳ hồi phục sức khỏe kéo dài nhiều tuần lễ.

Sốt xuất huyết Dengue

Bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng giống thể Dengue cổ điển. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tiêu chuẩn để chẩn đoán SXHD / Dengue với hội chứng sốc (Dengue shock syndrome: DSS) là: sốt cao, các biểu đạt của xuất huyết, gan to và suy tuần hoàn kèm theo giảm tiểu cầu và cô đặc máu.

Cơ chế sinh bệnh học:

Tuổi, tình trạng miễn dịch, chủng virus và tình trạng di truyền của bệnh nhân được coi là những nhân tố nguy cơ quan yếu nhất có can dự tới SXHD nặng và tử vong. Tác giả S.B. Halstead đã đưa ra một giả thuyết về cơ chế sinh bệnh học để giải thích SXHD / DSS. Theo S.B. Halstead thì một nhân tố nguy cơ của sốc là trong bệnh nhân có các kháng thể Dengue ở chừng độ không đủ trung hòa virus đã dẫn tới một nhiễm trùng thứ phát do “miễn nhiễm tăng cường”. Như vậy, thì chỉ có một số người bị nhiễm lần hai với một týp Dengue khác mới bị SXHD / DSS. Giả thuyết này cho rằng bạch cầu đơn nhân là nơi phát triển trước hết của virus Dengue. chừng độ kháng thể dị đồng dưới mức trung hòa đã kết hợp với virus làm tăng khả năng thực bào, khi virus đã vào trong tế bào thì phức hợp này bị vỡ ra và làm cho virus nhân lên mạnh. Độ nặng nhẹ của bệnh có liên hệ tới số lượng bạch huyết cầu đơn nhân đã bị nhiễm và tiết vào máu các chất trung gian, các chất này tác động lên thành mạch, làm thoát huyết tương qua mao mạch và dẫn đến hội chứng sốc trong SXHD / DSS.

Chẩn đoán virus học

Phân lập virus

Bệnh phẩm là máu, huyết thanh, huyết tương bệnh nhân (lấy lúc sốt cao) hoặc lấy tổ chức gan, lách, não ở xác. Phân lập virus Dengue bằng kỹ thuật tiêm vào các tổ chức của muỗi trưởng thành (tiêm vào lồng ngực hoặc tiêm vào não muỗi Toxorhynchites ), hoặc cấy vào các loại nuôi cấy tế bào có cỗi nguồn từ muỗi như C6/36, AP-61, TRA-284SF hoặc các loại nuôi cấy tế bào có cỗi nguồn từ động vật như LLC-MK2, Vero. Sau đó phát hiện sự hiện diện của virus Dengue trong thân thể muỗi và trong các tế bào nuôi bằng kỹ thuật kháng thể huỳnh quang trực tiếp. Nếu phản ứng dương tính, tiếp tục định type virus bằng kỹ thuật miễn nhiễm huỳnh quang gián tiếp với các kháng thể đơn dòng Dengue 1, Dengue 2, Dengue 3, Dengue 4.

Phát hiện các kháng nguyên của virus Dengue

Có thể phát hiện các kháng nguyên của virus Dengue trong các mô của xác, trong máu và trong dịch não tủy bằng kỹ thuật miễn nhiễm mô hóa học, miễn nhiễm huỳnh quang hoặc miễn nhiễm enzyme (ELISA).

Phát hiện các đoạn ARN của virus Dengue

Có thể phát hiện các đoạn ARN của virus Dengue ở trong máu và trong dịch não tủy bằng kỹ thuật khuếch đại gen (RT- PCR: Reverse transcriptase - Polymerase chain reaction). Kỹ thuật này có độ nhạy cao giúp chẩn đoán nhanh và sớm bệnh sốt xuất huyết Dengue.

Chẩn đoán huyết thanh

Phát hiện kháng thể kháng Dengue trong huyết thanh bệnh nhân bằng phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu, phản ứng kết hợp bổ thể. Cần phải lấy huyết thanh kép, máu 1 lấy lúc bệnh mới khởi phát, máu 2 lấy sau máu 1 từ 5 ngày đến 2 tuần để tìm động lực kháng thể.

hiện, thường dùng phản ứng MAC ELISA để phát hiện kháng thể IgM của virus Dengue xuất hiện vào ngày thứ 5 của bệnh. Phản ứng MAC ELISA có ưu điểm là chỉ cần lấy máu một lần trong tuần đầu của bệnh (ngày thứ 5 - 7).

Phòng bệnh và chữa bệnh

Phòng bệnh

Biện pháp có hiệu quả nhất để phòng bệnh là diệt muỗi Aedes aegypti bằng mọi phương pháp có thể thực hành được. Do chưa có vaccine phòng bệnh nên việc giám sát và diệt muỗi là đường lối chính trong phòng SXHD bây giờ.

Vaccine Dengue đang được nghiên cứu và thử nghiệm.

Chữa bệnh

Chưa có thuốc chữa đặc hiệu, chỉ chữa triệu chứng và nâng cao sức đề kháng. Đối với thể nặng có sốc, cấp cứu phải khẩn trương, đốn là bù nhanh khối lượng tuần hoàn bằng dịch truyền, tốt nhất là plasma và khi có chảy máu nội tạng thì truyền máu.

Back To Top