Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Virus dại

Virus dại

Bệnh dại là một loại viêm não -màng não, thường gây tử vong. Tác nhân gây bệnh là virus dại thuộc giống Lyssavirus , nằm trong họ Rhabdoviridae .

CÁC TÍNH CHẤT CỦA VIRUS

Virus dại có hình gậy giống như hình viên đạn, dài 130-240nm và đường kính 70-80nm. Nucleocapsid đối xứng hình xoắn ốc, chứa ARN 1 sợi, có một vỏ ngoài mang các gai ngưng kết hồng huyết cầu, bản tính là glycoprotein.

Virus dại nhân lên được trong nhiều hệ thống tế bào người và động vật (tế bào tiên phát, các tế bào lưỡng bội...) Virus nhân lên ở trong bào tương, các nucleocapsid tập trung lại thành từng đám ở lưới nội bào tạo thành các hạt vùi, còn gọi là tiểu thể Negri.

Virus dại kém vững bền, nó nhạy cảm với ete, ở 56 0 C / 3 phút bị khử hoạt tính.

Virus dại chỉ có một typ huyết thanh.

Năm 1882, Louis Pasteur đã tiêm truyền vào não thỏ chủng virus dại phân lập được từ não động vật bị dại và nhận thấy thuộc tính gây bệnh của nó yếu đi khi gây lây cho chó bằng đường dưới da, chủng virus này được gọi là chủng virus khăng khăng, khác với các chủng virus dại đường phố mới phân lập được từ chó bị dại.

Chủng virus dại nhất mực

Chủng virus dại đường phố

Thời kỳ ủ bệnh

Ngắn, khăng khăng (7 ngày)

Thay đổi, ngắn hoặc dài tùy theo vị trí vết cắn và độc lực của virus

Khả năng gây bệnh

Yếu

Mạnh

Tạo tiểu thể Negri

Không

Có (80-90%)

Dùng để sản xuất vaccine

Được

Không

KHẢ NĂNG GÂY BỆNH

Sinh bệnh học

Vius thẳng thớm có mặt trong hệ thống tâm thần trung ương và hệ thống thần kinh ngoại biên của động vật bị dại. Các tế bào tâm thần ở hạch giao cảm bị bong ra làm cho tuyến nước miếng bị nhiễm virus.

Virus dại thâm nhập vào thân thể thường là qua các tổn thương ở da(vết cắn, vết cào xước, vết liếm...). Virus dại không truyền qua được da lành, nhưng niêm mạc nguyên lành vẫn có thể để cho virus xâm nhập được.

Virus nhân lên tại chổ ở vùng xâm nhiễm (cơ, tổ chức liên kết và nhất là các tế bào Schwann của các dây thần kinh cảm giác) và tiến dọc theo dây thần kinh hướng tâm tới tủy sống rồi lên hệ thống tâm thần trung ương, nhân lên và phá hủy các tế bào thần kinh của vỏ não, vỏ tiểu não, tủy sống. chung cục virus theo đường dây tâm thần ly tâm đi tới tuyến nước bọt. Sự thải virus ra ngoài theo tuyến nước bọt bắt đầu từ 1 đến 2 ngày trước các triệu chứng trước hết và kéo dài một đôi ngày sau ở động vật. Các mô khác có thể bị nhiễm virus như ở thận, lách, phổi.

Thời kỳ ủ bệnh can hệ mật thiết với vị trí vết cắn, vết cắn càng gần tâm thần trung ương thì thời kỳ ủ bệnh càng ngắn, do đó người ta còn có ít thời kì để bảo vệ người bị cắn trước khi virus xâm nhập tới hệ thần kinh. Bị nhiều vết cắn, vết cắn sâu, vết cắn vào vùng có nhiều tâm thần thì bệnh rất nặng.

Dịch tễ học

Ổ chứa: là các động vật máu nóng gồm các động vật hoang dã như cáo, chó rừng, chó sói, chồn... lưu hành bệnh dại bệnh tự nhiên, hoặc các động vật nuôi trong nhà như chó, mèo...Ngoài ra còn thấy virus dại ở tuyến nước miếng của một đôi loài dơi như loại dơi hút máu (dơi quỷ) và dơi ăn côn trùng. Dơi thường mang bệnh dại thể ẩn và có thể đào thải virus một thời gian dài. Ở động vật bị dại, virus có mặt trong hệ thống thần kinh, nước bọt, nước tiểu, hạch bạch huyết, sữa, và tồn tại rất ngắn trong môi trường bên ngoài. bởi thế động vật bị bệnh dại là ổ chứa duy nhất của virus và việc nhiễm virus gián tiếp rất hiếm.

Đường lây: Bệnh dại truyền từ động vật này sang động vật khác và sang người qua vết cắn, cào, xước trên da ...có dính nước miếng bị nhiễm virus dại.

Đối tượng cảm nhiễm: người và động vật nhiệt huyết dễ mắc bệnh. Ở nước ta, bệnh dại lưu hành ở hồ hết các địa phương do nuôi chó nhiều nên số người bị chó dại cắn nhiều, số người chết vì bệnh dại cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.

bộc lộ lâm sàng

Bệnh dại ở người

Bệnh dại là một bệnh viêm não - màng não, thời kỳ ủ bệnh đổi thay tùy theo vị trí vết cắn và độc lực của virus, có thể từ 1-3 tháng. Thời kỳ phát khởi thường có một hội chứng nhiễm trùng nhẹ, cảm giác bất thường ở chổ cắn, thần kinh không ổn định. Thời kỳ toàn phát có 3 thể lâm sàng:

Thể co giật: hay gặp nhất, dấu hiệu đặc trưng nhất là sợ nước, sợ gió. Bệnh nhân thường chết đột ngột do co thắt các cơ hô hấp.

Thể liệt: khởi đầu là liệt nhẹ một bên hoặc 2 bên hoặc liệt toàn thân (hội chứng Landry), liệt các cơ hô hấp làm bệnh nhân chết.

Thể mất trí: tiến triển thường hiểm.

Khi bệnh dại đã lên cơn thì chết, điều trị chỉ có tác dụng ngừa.

Bệnh dại ở thú vật

Triệu chứng là con vật không thường ngày, bỏ ăn hoặc ăn những thứ không ăn được như áo rách, chổi...Tiếng chó sủa biến thành tiếng rú vì các dây thanh âm bị liệt, nước dãi rơi, con vật chạy rong khắp nơi, cắn xé nhiều, uống nước nhiều. Về sau xuất hiện rối loạn hô hấp, chó gầy và liệt rồi chết vào khoảng ngày thứ 5-7.

CHẨN ĐOÁN PHÒNG THÍ NGHIỆM

Về chẩn đoán vi sinh vật bệnh dại đối với người, người ta ít làm vày việc lấy bệnh phẩm rất khó khan, mặc khác nó cuing không có ý nghĩa trng điều trị. Chẩn đoán thường được tiến hành chủ yếu ở các động vật ngi bị dại cắn người cắn người.

Xét nghiệm mô bệnh học

Bệnh phẩm là não của động vật nghi bị dại. Tìm các hạt vùi trong bào tương của tế bào tâm thần, gọi là tiểu thể Negri, nhưng có 10-15% không tìm thấy tiểu thể Negri.

Tìm kháng nguyên virus

Phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp cho phép tìm ra các kháng nguyên virus dại trong vài giờ (các hạt vùi bắt màu huỳnh quang trong bào tương) ở trong các tế bào thần kinh, nhất là ở sừng Ammon hoặc tiểu não. Đây là phương pháp tốt nhất.

Phân lập virus

Phân lập virus bằng cách tiêm truyền chất nghiền não hoặc nước bọt vào não chuột nhắt con, sau đó phát hiện các kháng nguyên virus dại trong các tế bào não chuột nhắt con bị chết bằng phương pháp miễn nhiễm huỳnh quang. Người ta còn thường phân lập virus trong các nuôi cấy tế bào.

Chẩn đoán huyết thanh không có giá trị trong chẩn đoán.

ĐIỀU TRỊ dự phòng

Xử trí vết cắn

Đối với các vết cắn, đã có nhiều phương pháp xử lý khác nhau với mục đích là làm sạch virus hay làm mất hoạt lực của virus.

Xử trí vết cắn càng nhanh càng tốt, có thể xử trí vết cắn như sau:

Rửa bằng dung dịch xà phòng 20% hoặc bằng dung dịch Benzalkonium clorua 20%

Để hở vết thương

Gây tê tại chỗ bằng Procain có tác dụng làm chậm quá trình tiến triển của virus

Khi vết cắn ở chổ nguy hiểm, tiêm huyết thanh chống dạị dưới da phía trên vết cắn.

Điều trị đề phòng bằng vaccine

Việc xử dụng vaccine chống dại với mục đích điều trị phòng ngừa là có thể được và có hiệu quả nếu điều trị đúng sau khi nhiễm bệnh.

Các vaccine đời thứ nhất như vaccine Fermi simple được sản xuất bằng cách nuôi cấy virus trong các mô tâm thần của động vật lớn (tủy hoặc não) gây ra các viêm não dị ứng trầm trọng, có thể dẫn tới tử vong. Ngày nay, người ta xử dụng các vaccine làm từ não chuột nhắt mới đẻ như vaccine Fuenzalida không chứa thành phần dị ứng nên loại vaccine này không gây ra các biến chứng nguy hiểm như các vaccine đời đầu tiên. Người ta cũng sinh sản vaccine dại trên các nuôi cấy tế bào lưỡng bội của người nhưng số lượng vaccine ít chỉ dùng cho những đối tượng cấp thiết với mục đích ngừa. giờ hai loại vaccine phòng dại được sử dụng tại Việt Nam là Fuenzalida (do Việt Nam sinh sản) và Verorab (do Pháp sinh sản).

Khi đứng trước một người bị chó cắn thì nên áp dụng một số biện pháp sau:

Nếu chó cắn xong lên cơn dại hoặc chết, hoặc mất tích thì tiêm kháng huyết thanh dại sau đó điều trị bằng vaccine ngay.

Nếu chó cắn xong, chó vẫn sống bình thường, nhưng vết cắn gần tâm thần trung ương hoặc sâu và nhiều chỗ thì phải tiêm huyết thanh rồi thì tiêm vaccine ngay, và theo dõi chó, nếu sau 10 ngày chó vẫn thường nhật thì ngừng tiêm.

Nếu chó cắn xong vẫn thông thường, vết cắn xa thần kinh trung ương thì tiêm huyết thanh kháng dại và theo dõi chó, nếu có dấu hiệu dại ở chó thì phải tiêm vaccine ngay.

Trường hợp chó con cắn phải tiêm ngay và tiêm đủ liều vì các dấu hiệu dại ở chó con không rõ ràng như chó lớn.

PHÒNG BỆNH

Ở người

Đối với những người vì nghề mà họ bị bức gần các động vật có thể bất thần lên cơn dại (như thú y, thợ lột da thú, gác rừng, nhân viên phòng THÍ NGHIỆM, chẩn đóan và nghiên cứu) người ta dùng một loại vaccine chống dại với mục đích đề phòng.

Ở động vật

Gồm nhiều biện pháp, cần phải được thực hiện đồng bộ và nghiêm túc như tiêm vaccine thắt cho chó, mèo ở vùng có bệnh dại lưu hành, tiêu diệt các con chó bị dại, bắt giữ chó chạy rong...

Back To Top