Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021

Điều trị cổ tử cung nham (Ung thư cổ tử cung )

Điều trị cổ tử cung nham (Ung thư cổ tử cung )

Đại cương.

Là một loại thũng lưu ác tính ở cơ quan sinh dục đàn bà. Đặc điểm lâm sàng ,thời kỳ đầu thường triệu chứng nghèo nàn, bệnh nhân thường không có cảm giác gì đặc biệt, chỉ khi thũng nham phát triển đến mức độ nhất định thì triệu chứng mới rõ, đẵn là bài xuất dịch ở âm đạo, sau kỳ kinh thấy âm đạo xuất huyết.

Thời kỳ đầu xuất huyết là do xúc tiếp, hoặc xuất huyết không theo qui tắc nào. Khi lượng máu mất nhiều, đau dữ dội, âm đạo ra máu liên tiếp là diễn biến nặng.

hiện, theo YHHĐ điều trị bệnh này chính yếu là dùng xạ trị hoặc hóa học trị liệu, thủ thuật trị liệu, hoặc là điều trị tổng hợp. Tuy nhiên, tuốt tuột phương pháp trị liệu trên đều có khuôn khổ thích ứng nhất định và đều có phản ứng phụ của thuốc, bệnh nhân thường không muốn vận dụng.

Chẩn đoán theo YHHĐ:

Ung thư cổ tử cung thời đầu khu trú ở lớp cơ, quan sát mắt thường không phân biệt được, cần phải khám phụ khoa kết hợp thẩm tra xét nghiệm toàn thân, xét nghiệm tế bào, sinh thiết, rà tổ chức học, soi âm đạo để chẩn đoán sớm, biết được khuôn khổ của khối u.

Triệu chứng cốt là âm đạo chảy máu, âm đạo xuất tiết dịch và đau nhức buốt, chừng độ nặng hay nhẹ can hệ đến thời kì sớm hay muộn.

Các thời đoạn lâm sàng (tiêu chuẩn của Hội nghị phụ khoa Quốc tế,1985 đến năm 1988 bắt đầu sử dụng): chia làm 5 giai đoạn:

giai đoạn 0: nham nguyên vị tẩm thấm tiền nham.

giai đoạn I: xác định sinh thiết (tổn thương phát triển đến thân tử cung).

thời đoạn II: thương tổn vượt quá cổ tử cung lan đến <1 3="" âm="" đạo.<="p">

tuổi III: u phát triển đến thành xương chậu (xâm phạm đến 1/3 âm đạo).

tuổi tiền nham thường có: loét cổ tử cung, ban đỏ kết hạch lồi ra hoặc loét nát.

Dựa vào chừng độ phát triển người ta chia làm 3 mức:

Nhóm ngoài sinh dục, thể tựa như dạng hoa.

Nhóm trong sinh dục, nhóm kết hạch.

Nhóm loét mụn.

Theo quan niệm YHCT:

Bệnh cổ tử cung nham thường được miêu tả trong các phạm trù, “băng lậu” “đới hạ” “tạp sắc đới”. Nguyên nhân đẵn là do 3 tạng: can, tỳ, thận bị tổn thương làm cho thấp nhiệt - nhiệt độc ngưng tụ ở bào cung. YHCT cho rằng: “ bệnh thuộc về bản hư, tiêu thực”.

Điều trị bệnh vừa kết hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng cao chức năng miễn nhiễm của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng nham, bảo tồn chức năng sinh dục và chức năng sinh lý thường nhật của cơ thể. Ngoài ra, có thể kết hợp hóa trị liệu, xạ trị để giảm bớt tác dụng phụ, cải thiện chứng trạng, nâng cao hiệu qủa, kéo dài đời sống cho bệnh nhân.

bây chừ, điều trị ung thư cổ tử cung phải dựa vào tuổi lâm sàng của YHHĐ với biện chứng luận trị Trung y.

thí dụ: thể “can thận âm hư” đa phần thuộc thấp nhiệt hạ trú, khí âm lưỡng thương; thể kết hạch đa phần thuộc khí trệ huyết ứ. hiện thời, người ta dùng thuần tuý thuốc Trung dược có thể điều trị khỏi nham chứng trước khi có biến chứng di căn.

Muốn đạt hiệu quả phải kết hợp hóa trị liệu, phóng xạ trị liệu hoặc điều trị phối hợp với giải phẫu, vận dụng thuốc thảo mộc có thể giảm được các biến chứng phản ứng của ruột già ,bóng đái, trực tràng. Tùy theo từng thời kỳ mà ứng dụng thuốc uống trong, thuốc dùng ngoài hay phối hợp cả hai.

Biện chứng luận trị:

Những điểm trọng yếu biện chứng:

Đặc điểm bệnh sinh của cổ tử cung nham là bản hư tiêu thực, hoặc hư thực kết hợp nhưng đa số là chứng hư. do vậy phải hữu ích xung nhâm, bồi bổ can thận tỳ là phép tắc chủ yếu:

Kiện tỳ ích khí, tư bổ can thận, phù dương cố thể (bản) chi pháp.

Khí - huyết ứ trệ, nhiệt độc trệ lưu, hình thành tích là tiêu thực.

áp dụng lý khí hoạt huyết, hóa ứ nhuyễn kiên, trừ thấp giải độc, kháng nham tiêu lưu.

Phương pháp điều trị:

Phải nắm vững tà chính thịnh - suy; chọn dùng trước công, sau bổ, công bổ kiêm trị (thường thời đầu phải công, thời kỳ sau phải bổ). Nhìn chung không kể sớm hay muộn đều phải chọn các vị thuốc kháng nham.

Biện chứng phương trị tuổi đầu:

Thể khí uất thấp khốn:

Ức uất thương can, can khí uất kết, uất lâu thương tỳ, thủy thấp lâu thương tỳ, thủy thấp nội đình uẩn kết xung nhâm dẫn đến bệnh. Nhìn chung hệ thống tâm thần trung ương thất điều, chức năng của hệ tâm thần thực vật bị rối loạn là cốt, tình chí uất ức phiền táo; ngực, sườn chướng đầy, bất thử, tức nhiều, ăn kém (nạp ngại), đới hạ bất chỉ, đục hoặc hồng, mạch huyền; lưỡi hơi xám, rêu trắng mỏng hoặc vàng mỏng.

Phương pháp điều trị: sơ can lý khí, lợi thấp giải độc.

Phương thuốc thường dùng: “tiêu giao tán” gia thêm: bạch hoa xà thiệt thảo, bán chi liên, sinh ý dĩ nhân, sơn đậu căn.

Thể khí - huyết ứ trệ:

Tại chỗ tẩm thấm là chính thuộc kết hạch, triệu chứng toàn thân nghèo nàn, đa phần do quá tổn thương thất tình, uất nộ tư lự, khí trệ huyết ứ lâu ngày thành kết, thường thấy đới hạ không nhiều cát hữu thấp hạ; tại chỗ bệnh lý cổ tử cung đứt, mạch huyền hoặc tế, đầu lưỡi hoặc rìa lưỡi có ban điểm ứ huyết, rêu trắng mỏng.

Phương pháp điều trị: hoạt huyết - hóa ứ, nhuyễn kiên - tán kết.

Phương thuốc: “hoạt huyết kháng nham thang”, “kháng nham tán”.

Đương qui

Trạch lan

Hổ trượng

Ô dược

Bạch thược

Xích thược

Hương phụ

Đan sâm

Phục linh

Trạch tả

Bạch mao đằng

Bạch hoa xà thiệt thảo.

Thể thấp nhiệt ứ độc:

Thấp uẩn hóa nhiệt, lâu mà kết độc, ứ trở bào lạc mà thành; đa phần ung thư cổ tử cung do viêm nhiễm, đới hạ lượng nhiều, vàng trắng xen lẫn chất dính có màu sắc như socola; khí tắc nếu kiêm huyết ứ thành cục, lưng mỏi, bụng trướng đau, miệng khô đắng, tiểu vàng, đại tiện táo, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng dày nhờn, mạch huyền sác hoặc huyền hoạt sác.

Phương pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp - giải độc hóa ứ.

Phương thuốc: “bát chính tán hoá nhiệt”, “giải độc kháng nham thang”.

Biện chứng phương trị giai đoạn sau:

Thể tỳ thận dương hư:

Lịch sử bất tiết, đa sản thương thân, xung nhâm khí - huyết trở trệ, nội kết ứ độc; bệnh lâu ngày đới hạ băng lậu tiêu hao nhất định, toàn thân suy kiệt. Lâm sàng đa số đới hạ như nước, kinh nguyệt băng trung trọc hạ thần quyện (mỏi mệt, vận động khí đoản), tứ chi không ấm, nạp ngại tiện lỏng, niệu trong dài, mạch tế, lưỡi nhợt bệu mềm, rêu trắng mỏng nhờn.

Phương pháp điều trị: bổ thận kiện tỳ - ôn hóa thủy thấp - cố sáp chỉ đới.

Phương thuốc: “Nội bổ hoàn”, “sâm linh bạch truật tán”, “kháng nham phù chính đan”, hoàng kỳ, khuẩn linh chi, ô tặc cốt, sao tây thảo căn, tử hà sa, a giao, giác phiêu giao, lộc giác xương, huyết dư thán, sinh mẫu lệ, tang phiêu tiêu.

Thể can thận âm hư:

Do thấp nhiệt uất kết, ứ độc trong cơ thể lâu ngày gây thương tổn phần âm, can thận tổn hao xuất hiện triệu chứng nhiễm độc. Lâm sàng thấy âm đạo xuất huyết không theo qui tắc, đới hạ vàng trắng, đầu choáng, tai ù, lưng đau mỏi, miệng khát, tự hãn (mồ hôi trộm), tiểu tiện sáp đau, đại tiện bí kết, lưỡi đỏ rêu sáng hoặc vàng nhờn, mạch tế sác, huyền tế sác.

Phương pháp điều trị: tư dưỡng can thận - giải độc tán tích.

Phương thuốc: “bổ trung ích khí thang” gia thêm thuốc kháng nham.

thời đoạn sau của bệnh cổ tử cung nham diễn biến phức tạp, tà chính tương tranh, phải kết hợp công bổ kiêm trị, tham khảo thêm các bài thuốc nghiệm phương, để biện chứng luận trị.

Nếu kết hợp xạ trị và hoá dược trị thì phải để ý các biến chứng phụ thường gặp.

Phản ứng trực tràng: khi xạ trị nhiệt độc đều tổn thương trung tiêu thấp nhiệt trở trệ, tỳ hư khí nhược, huyết mất thống nhiếp.

Phản ứng lúc đầu: lỵ cấp hậu trọng ngày tới 10 lần hoặc hơn, phân lẫn niêm dịch hoặc ra máu tươi, có khi tiện lỏng như nước, lưỡi có gai hồng, rêu vàng nhờn, mạch tế sác. Điều trị phải thanh nhiệt - giải độc, kiện tỳ hóa thấp thường dùng “bạch đầu ông thang” gia vị, giai đoạn sau phải dùng “sinh mạch tán” hợp với “bạch đầu ông thang” gia vị (bạch đầu ông, tần bì, hoàng liên, hoàng bá).

Phản ứng bọng đái: phải dùng “tri bá địa hoàng thang” gia thêm: biển xúc, mộc thông, sa tiền tử. Nếu niệu huyết phải hợp phương “Tiêu kế ẩm tử” hợp “nhị chí hoàn” (nữ trinh tử, hạn liên thảo).

Biến chứng bạch cầu giảm:

Dương hư: phải ôn thận kiện tỳ, ích khí dưỡng huyết; thường dùng “qui tỳ thang”, “bổ trung ích khí hoàn”, “du thang” (thục địa, đương qui, đẳng sâm, bạch thược, xuyên khung, hoàng kỳ).

Âm hư: phải tư âm thanh nhiệt, ích khí sinh tân, thường dùng “tri bá địa hoàng thang” + “sâm mạch tán”.

Nếu tâm phiền, thất miên thì thêm: hoàng liên, bá tử nhân, dạ giao đằng, thủ ô đằng.Nếu tiểu đỏ đau thì thêm: đại kế, hoàng bá, ích nguyên tán; đi ngoài táo thêm qua lâu nhân.

Back To Top