Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Vaccine và huyết thanh

Vaccine và huyết thanh

Vaccine và huyết thanh là những chế phẩm đề phòng bệnh nhiễm trùng bằng dụng cụ miễn dịch. Những công cụ này biến đổi tính thụ cảm của vật chủ thành sự đề kháng nhất thời hoặc vĩnh viễn. Chúng tạo nên tính miễn dịch hoạt động (vaccine) hoặc tiêu cực (huyết thanh) thường nhật rất đặc hiệu.

VACCINE

Nguyên lý dùng vaccine

dùng vaccine là đưa vào thân thể kháng nguyên có cội nguồn từ vi sinh vật gây bệnh hoặc vi sinh vật có cấu trúc kháng nguyên giống vi sinh vật gây bệnh, đã được bào chế đảm bảo độ an toàn cần thiết, làm cho thân thể tự tạo ra tình trạng miễn nhiễm chống lại tác nhân gây bệnh.

Sự bảo vệ hình thành nhờ sự đáp ứng miễn nhiễm vừa dịch thể (globulin miễn dịch đặc hiệu nhất là IgG, có thể IgA và IgM), vừa trung gian tế bào (đại thực bào và tế bào lympho).

Cường độ và hiệu quả của sự đáp ứng miễn nhiễm biến thiên theo :

Vaccine: Tính chất và nồng độ của kháng nguyên, những chất phụ gia miễn dịch, thường sử dụng là những muối kim khí: Al hoặc Ca có thể tăng cường sự đáp ứng của một vài vaccine bất hoạt.

Vật chủ: Tuổi là một yếu tố quan trọng. Trẻ lọt lòng cần ít tháng để đạt sự trưởng thành miễn nhiễm (dịch thể), ngoại giả kháng thể từ sữa mẹ có thể đóng vai trò ngăn ngừa bệnh nhiễm trùng. trái lại sự đáp ứng miễn nhiễm giảm dần với tuổi nhưng không biến mất ở người lớn tuổi. Những nhân tố di truyền, còn chưa biết rõ cũng ảnh hưởng đến cường độ của sự đáp ứng miễn dịch. Cuối cùng là một vài nguyên tố làm suy giảm sự đáp ứng miễn nhiễm, chúng có thể do di truyền như thường có g globulin huyết, sút giảm tế bào miễn nhiễm hoặc do mắc phải như trong bệnh u ác tính, điều trị giảm miễn nhiễm, suy dinh dưỡng...

Các loại vaccine

Vaccine sống giảm độc lực

Là những tác nhân nhiễm trùng tự nhiên, được làm giảm độc một cách nhân tạo ở phòng thể nghiệm. Vaccine đậu mùa, vaccine trước hết ở trong lịch sử, là một virus động vật (đậu bò) có khả năng đem lại sự bảo vệ chéo chống lại virus đậu mùa mà nó rất gần gũi. phần nhiều những vaccine sống hiện có là những vaccine virus: vaccine sốt vàng, vaccine tê liệt, sởi, rubêon, quai bị. Một vaccine vi khuẩn sống thường sử dụng là BCG. Đối với vaccine sống, sự chủng ngừa thường một lần, gây nên sự nhiễm trùng nhẹ hoặc không biểu lộ, sự nhân lên của virus trong thân gây nên miễn nhiễm thường lâu bền, tương đương với sự miễn nhiễm do sự nhiễm trùng tự nhiên.

Những thuận lợi của vaccine sống là tiện lợi (tiêm 1 lần), giá thành thường rẻ. Điều bất tiện là có thể đem lại nguy cơ nhiễm trùng (phản ứng và biến chứng).

Vaccine chết

Là những chế phẩm kháng nguyên đã mất khả năng nhiễm trùng nhưng còn bảo tàng thuộc tính gây miễn dịch. Người ta phân biệt :

Những vaccine chết toàn thể

Loại vaccine này chứa vớ các thành phần của tác nhân nhiễm trùng, giết chết bằng nhiệt, formol hoặc b propiolacton, bao gồm vaccine vi khuẩn như ho gà, thương hàn TAB, dịch tả hoặc vaccine virus như cúm, bại liệt, dại.

Những vaccine chết chỉ chứa kháng nguyên tinh chế

Loại vaccine này chỉ bao gồm thành phần kháng nguyên quan trọng nhất về bình diện sinh miễn nhiễm của vi khuẩn hoặc virus được thuần khiết và làm bất hoạt. Ví dụ như vaccine chứa giải độc tố vi khuẩn bản chất protein (vaccine uốn ván, vaccine bạch hầu), vaccine chứa thành phần polysaccharide của vi khuẩn (vaccine não mô cầu, vaccine phế cầu), vaccine chứa thành phần kháng nguyên virus (vaccine virus viêm gan B được điều chế từ HBsAg có trong huyết tương những người nhiễm kháng nguyên này).

Những vaccine chết có ưu điểm không có nguy cơ nhiễm trùng. Những bất lợi bao gồm: giá thành thường cao, nguy cơ mẫn cảm, một lịch chủng ngừa nhiều lần và lặp lại.

Vaccine tái tổ hợp

Là những vaccine được sinh sản dựa vào kỹ thuật di truyền và công nghệ gen, như vaccine viêm gan B tái tổ hợp.

Nguyên tắc dùng vaccine

Việc sử dụng vaccine phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

Tiêm chủng trên khuôn khổ rộng, đạt tỷ lệ cao.

Tiêm chủng đúng đối tượng.

Bắt đầu tiêm chủng đúng lúc, đảm bảo đúng khoảng cách giữa các lần tiêm chủng, tiêm chủng nhắc lại đúng thời gian.

Tiêm chủng đúng đường và đúng liều lượng.

Nắm vững phương pháp phòng và xử trí các phản ứng không mong muốn do tiêm chủng.

Bảo quản vaccine đúng quy định.

Phạm vi và tỷ lệ tiêm chủng

Phạm vi tiêm chủng

Phạm vi tiêm chủng được quy định tuỳ theo tình hình dịch tể của từng bệnh. khuôn khổ tiêm chủng dĩ nhiên không giống nhau giữa các nước. Ngay cả các khu vực trong một nước cũng có thể có sự khác nhau. Những quy định này lại có thể đổi thay theo thời gian do sự đổi thay về dịch tể học của bệnh nhiễm trùng. Về lý thuyết, người ta thường nói tiêm chủng càng rộng càng tốt. thực tiễn thì không thể thực hành được điều đó vì nhưng lý do sau đây: thứ nhất, sẽ rất tốn kém (phí cho việc mua hoặc sinh sản vaccine và cho việc tổ chức tiêm chủng): thứ hai, tuy các phản ứng không mong muốn do vaccine gây ra rất it nhưng không phải không có.

Tỷ lệ tiêm chủng

Những khu vực có lưu hành bệnh lây, tiêm chủng phải đạt trên 80% đối tượng chưa có miễn nhiễm mới có khả năng ngăn ngừa được dịch. Nếu tỷ lệ tiêm chủng chỉ đạt trong khoảng 50 đến 80%, nguy cơ xảy ra dịch chỉ giảm bớt. Nếu tỷ lệ tiêm chủng dưới 50% dịch vẫn dễ dàng xảy ra.

Đối tượng tiêm chủng

Đối tượng cần được tiêm chủng một loại vaccine nào đó là quờ quạng những người có nguy cơ nhiễm vi sinh vật gây bệnh mà chưa có miễn nhiễm.

trẻ thơ là đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Sau khi hết miễn dịch tiêu cực do mẹ truyền (trong thời kì khoảng 6 tháng), nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng của trẻ rất lớn. Mặt khác miễn nhiễm tiêu cực nhờ kháng thể truyền qua rau thai hoặc qua sữa chỉ có đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ cốt là do miễn nhiễm dịch thể. Đối với những bệnh nhiễm trùng mà cơ chế bảo vệ là miễn dịch qua trung gian tế bào thì trẻ có thể bị bệnh ngay từ những tháng trước hết sau khi sinh. Những hiểu biết này là cơ sở cho việc quy định thời khắc bắt đầu tiêm chủng cho trẻ thơ. Trừ những đối tượng chống chỉ định, sờ soạng con trẻ đều phải được tiêm chủng.

Đối với người lớn, đối tượng tiêm chủng thu hẹp hơn. Thường chỉ tiến hành tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao. Những người đi du lịch đến các vùng dịch tể cần phải được tiêm chủng.

Trong những năm gần đây, để phòng bệnh uốn ván sơ sinh, nữ giới ở lứa tuổi sinh nở được tiêm phòng uốn ván.

Diện chống chỉ định tiêm chủng có chỉ dẫn riêng cho mỗi vaccine. Nói chung không được tiêm chủng cho các đối tượng sau đây:

Những người đang bị sốt cao. Những trường hợp đang bị nhiễm trùng nhẹ không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ thì không cần phải hoãn tiêm chủng.

Những người đang ở trong tình trạng dị ứng. Những người có cơ địa dị ứng hoặc có lịch sử gia đình bị dị ứng vẫn tiêm chủng được, nhưng cần phải theo dõi cẩn thận hơn.

Vaccine sống giảm độc lực không được tiêm chủng cho những người bị thiếu hụt miễn dịch, những người đang dùng thuốc ức chế miễn nhiễm hoặc những người mắc bệnh ác tính.

tất tật các loại vaccine virus sống giảm độc lực không được tiêm cho đàn bà đang mang thai.

thời kì tiêm chủng

Việc tiêm chủng được tiến hành thẳng hoặc hội tụ tiêm chủng hàng loạt chân tay vào đề nghị của mỗi loại vaccine và các điều kiện cụ thể khác.

thời điểm tổ chức tiêm chủng

Khi đã xác định được quy luật xuất hiện dịch, cần phải tiến hành tiêm chủng đón trước mùa dịch, để thân thể có đủ thời kì hình thành miễn nhiễm. Đối với vaccine được tiêm chủng lần đầu, thời kì tiềm tàng kéo dài từ 24 giờ (làng nhàng khoảng 1 tuần), thuộc hạ vào bản tính vaccine và tính phản ứng của thân thể. Hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất sau khoảng 4 ngày đến 4 tuần (làng nhàng 2 tuần). Đó là kết quả của đáp ứng tiên phát. Khi tiêm chủng nhắc lại, thời gian tiềm tàng sẽ rút ngắn, hiệu giá kháng thể đạt được đỉnh cao nhất chỉ sau một số ngày nhờ những tế bào lympho có trí tưởng miễn nhiễm. Đó là kết quả của đáp ứng miễn nhiễm thứ phát.

Khoảng cách giữa các lần tiêm chủng

Đối với những vaccine phải tiêm chủng nhiều lần (khi tạo miễn nhiễm căn bản), khoảng cách hợp lý giữa các lần tiêm chủng là 1 tháng. Nếu khoảng cách này ngắn hơn, mặc dầu tiêm chủng lần sau nhưng kết quả đáp ứng của thân vẫn chỉ như tiên phát, đáp ứng miễn dịch thứ phát sẽ không có hoặc bị hạn chế. trái lại vì một lý do nào đó phải tiêm chủng lần tiếp theo sau hơn 1 tháng, hiệu quả miễn nhiễm vẫn được đảm bảo, do vậy lần tiêm chủng trước vẫn được tính. Tuy nhiên không nên kéo dài việc tiêm chủng nếu không có những lý do buộc, vì trẻ có thể bị măc bệnh trước khi được tiêm chủng đầy đủ.

thời kì tiêm chủng nhắc lại

thời gian tiêm chủng nhắc lại tuỳ thuộc vào thời kì duy trì được tình trạng miễn dịch có đủ hiệu lực bảo vệ của mỗi loại vaccine. thời kì này khác nhau đối với các loại vaccine khác nhau. Khi tiêm chủng nhắc lại thường chỉ cần 1 lần. Với lần tăng cường này, thân sẽ đáp ứng miễn nhiễm nhanh và mạnh hơn, cho dù kháng thể của lần tiêm chủng trước chỉ còn lại rất ít.

Liều lượng và đường đưa vaccine vào thân thể

Liều lượng

Liều lượng vaccine tuỳ thuộc vào loại vaccine và đường vào thân thể. Liều lượng quá thấp sẽ không đủ khả năng kích thích thân thể đáp ứng miễn dịch. trái lại, liều lượng quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng dung nạp đặc hiệu đối với lần tiêm chủng tiếp theo.

Đường tiêm chủng

Mỗi loại vaccine đòi hỏi một cách thức chủng ngừa thích hợp. Người ta sử dụng nhiều phương pháp chủng ngừa :

Chủng (rạch da): đây là đường cổ điển nhất, được thực hành ngay từ lúc Jenner sáng chế ra vaccine phòng bệnh đậu mùa. Đối với vaccine này, đường chủng vẫn được dùng cho đến khi bệnh đậu mùa bị diệt hoàn toàn trên hành tinh của chúng ta (1979), không cần phải chủng đậu nữa. Ngày nay đường chủng vẫn còn được sử dụng cho một số ít vaccine (BCG, dịch hạch).

Đưòng tiêm: có thể tiêm trong da, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, không bao giờ tiêm vaccine vào đường tĩnh mạch. phần nhiều các vaccine có thể tiêm dưới da, chỉ một số vaccine không cho phép dùng cách chủng ngừa này, BCG phải tiêm trong da, tiêm dưới da thường hay gây loét. Phương pháp tiêm trong da có nhiều ưu điểm : chỉ cần một lượng vaccin tương đối nhỏ (0,1ml), ít gây phản ứng, hiệu ứng miễn dịch không kém gì phương pháp tiêm dưới da. Tiêm trong da có thể được thực hành bằng bơm kim tiêm hoặc bằng bơm nén sức ép không kim, phương pháp này giúp việc tiêm chủng mau chóng dễ thực hiện với quy mô rộng rãi, nhưng cần lưu ý đúng kỹ thuật.

Đường uống: Đường uống là đường đưa vaccine vào cơ thể dễ thực hành nhất. Tuy nhiên chỉ thực hiện được đối với những vaccine không bị dịch đường tiêu hoá phá huỷ. Sự hiểu biết tốt hơn về vai trò của miễn nhiễm tại chổ do IgA tiết, những vaccine phòng nhiễm trùng đường tiêu hoá hoặc nhiếm trùng ở nơi khác nhưng vi sinh vật xâm nhập vào thân theo đường tiêu hoá đã được sử dụng (như vaccin thua) hoặc đang được nghiên cứu đưa vào thân thể bằng cách uống. Đường uống có lợi điểm là kích thích miễn dịch tại chỗ mạnh hơn nhiều so với đường tiêm, nhưng đường uống không đảm bảo sự nhất thiết của virut trong vaccine, vì vậy uống ba lần liên tục vaccin bại được xem như cần thiết đê tạo thành miễn nhiễm.

Ngậm dưới lưỡi: bây chừ đã có một số vaccine đường ruột điều chế dưới dạng viên để ngậm dưới lưỡi. Cần phải có một liều lượng kháng nguyên cao mới bảo đảm tác dụng gây miễn dịch.

Nhỏ mũi: Được sử dụng rộng rãi cho vaccine cúm.

ngoại giả vaccine còn được đưa vào cơ thể theo một số đường khác như khí dung, thụt đại tràng, những đường này ít được sử dụng.

Các phản ứng phụ do tiêm chủng

Về nguyên tắc, vaccine phải bảo đảm đủ độ an toàn. Song trên thực tại không thể đạt được mức độ an toàn tuyệt đối. tất tật các vaccine đều có thể gây ra phản ứng phụ ở một số người.

Phản ứng tại chỗ: Những phản ứng nhẹ thường gặp sau tiêm chủng là nơi tiêm có thể hơi đau, mẩn đỏ, hơi sưng hoặc nổi cục nhỏ. Những phản ứng này sẽ mất đi chóng vánh sau một đôi ngày, không cần phải can thiệp gì. Nếu tiêm chủng không bảo đảm diệt trùng, thì nơi tiêm chủng có thể bị viêm nhiễm, làm mủ.

Phản ứng toàn thân: Trong các phản ứng toàn thân, sốt hay gặp hơn cả (10 - 20%). Sốt thường hết nhanh sau một đôi ngày. Co giật có thể gặp nhưng với tỷ lệ rất thấp (1/10.000), hầu hết khỏi không để lại di chứng gì. Một số vaccine có thể gây ra phản ứng nguy hiểm hơn, trong đó có sốc phản vệ, tuy nhiên tỷ lệ rất thấp.

Khi bàn đến những phản ứng do vaccine, rất cần thiết phải nhấn mạnh rằng chừng độ hiểm nguy do vaccine nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ nguy hiểm do bệnh nhiễm trùng ứng gây ra. ví dụ, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm do bệnh ho gà gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần phản ứng hiểm do vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván (vaccine DPT) gây ra.

Bảo quản vaccine

Vaccine rất dễ bị hỏng nếu không được bảo quản đúng. Chất lượng vaccine ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực tạo miễn dịch, do vậy các vaccine cần phải được bảo quản tốt ngay từ lúc nó được sinh sản cho tới khi được tiêm chủng vào cơ thể. Thường quy bảo quản các vaccine không giống nhau, nhưng nói chung các vaccine đều cần được bảo quản trong điều kiện khô, tối và lạnh.

Nhiệt và ánh sáng phá huỷ tuốt các loại vaccine, nhất là những vaccine sống như vaccine sởi, bại và vaccine BCG sống. Ngược lại, đông lạnh phá huỷ nhanh các vaccine giải độc tố (như vaccine phòng uốn ván và bạch hầu). Trong quá trình sử dụng ở cộng đồng, các vaccine cần được bảo quản ở nhiệt độ trong khoảng từ 2 0 C đến 8 0 C.

Một trong những công việc quan yếu nhất trong việc tổ chức tiêm chủng là kiến lập được dây chuyền lạnh. Dây chuyền lạnh không thuần tuý là có các nhà lạnh, tủ lạnh, các phích đá hoặc các hộp cách nhiệt mà còn phải lưu ý cả những khâu trung gian trong quá trình vận chuyển vaccine và tiến hành tiêm chủng. Vaccine nếu đã bị phá huỷ dù có được bảo quản lại ở điều kiện hiệp cũng không thể có hiệu lực trở lại, cũng không có tác dụng nữa, phải loại bỏ.

Tiêu chuẩn của vaccine

Hai tiêu chuẩn cơ bản nhất của vaccine là an toàn và hiệu lực.

An toàn

Một vaccine lý tưởng khi dùng sẽ không gây bệnh, không gây độc và không gây phản ứng. Sau khi sản xuất vaccine phải được cơ quan kiểm định quốc gia soát chặt đẹp về mặt vô trùng, trong sáng và không độc.

sát trùng: vaccine không được nhiễm các vi sinh vật khác, nhất là các vi sinh vật gây bệnh.

thuần khiết: ngoài kháng nguyên đưa vào để kích thích cơ thể đáp ứng miễn dịch chống vi sinh vật gây bệnh, không được lẫn các thành phần kháng nguyên khác có thể gây ra các phản ứng phụ bất lợi.

Không độc: liều sử dụng phải thấp hơn rất nhiều so với liều gây độc.

Tuy nhiên, không có vaccine nào đạt được độ an toàn tuyệt đối. Khi cân nhắc để quyết định xem một vaccine nào đó có được đưa vào dùng hay không, cần phải so sánh giữa mức độ phản ứng do vaccine và tính nguy hiểm của bệnh nhiễm trùng tương ứng.

Hiệu lực

Vaccine có hiệu lực lớn là vaccine gây được miễn dịch ở chừng độ cao và tồn tại trong một thời kì dài.

Hiệu lực của những vaccine rất khác nhau. Người ta đánh giá bằng cách đo sự đáp ứng miễn dịch. Sự đáp ứng dịch thể có thể khám phá rõ ràng và định lượng bằng những thí điểm huyết thanh khác nhau, phản chiếu sự bảo vệ nhiều hoặc ít tùy theo lượng kháng thể ở trong máu. miễn dịch trung gian tế bào khó đánh giá hơn trừ trường hợp sử dụng những kỹ thuật tìm sự mẫn cảm như thí điểm tuberculin. Nhưng nhờ đánh giá những kết quả dịch tễ học người ta đo hiệu lực thực sự của sự chủng ngừa. Việc này thỉnh thoảng gặp khó khăn và có thể làm nảy những mâu thuẫn.

Ngoài 2 tiêu chuẩn trên, để chọn một vaccine tiêm chủng, người ta còn quan hoài đến giá thành và tính thuận lợi cho việc tiến hành tiêm chủng.

kết hợp vaccine

Mục đích chính của việc phối hợp vaccine là giảm bớt số mũi tiêm chủng hoặc làm giảm bớt số lần tổ chức tiêm chủng. Có hai loại phối hợp vaccine:

Tiêm chủng vaccine phối hợp (trộn các vaccine với nhau, tiêm chủng cùng một lần, cùng một đường).

Tiêm chủng nhiều vaccine riêng biệt trong cùng một thời gian, có thể ở các vị trí khác nhau hoặc theo những đường khác nhau.

phối hợp vaccine phải đảm bảo giữ được hiệu lực tạo miễn dịch và không gây ra tác hại gì. Hiệu lực tạo miễn dịch đối với mỗi thành phần vaccine ít nhất phải bằng khi chúng được tiêm chủng riêng rẻ. Một số trường hợp khi kết hợp vaccine tạo ra được đáp ứng miễn nhiễm mạnh hơn. Ngược lại có những trường hợp kết hợp không hợp lý làm giảm hiệu lực tạo miễn nhiễm. Sự phối hợp vaccine hợp lý sẽ không làm tăng tỷ lệ phản ứng phụ, tức là độ an toàn vẫn được đảm bảo như khi chúng được tiêm chủng riêng rẽ ở những thời gian khác nhau.

Lịch tiêm chủng

Cơ sở xây dựng lịch tiêm chủng là những hiểu biết về dịch tể học của bệnh truyền nhiễm và sự đáp ứng miễn nhiễm của đối tượng được tiêm chủng. Trước khi lập ra lịch tiêm chủng cần phải xác định những vấn đề cơ bản sau đây: tuổi tốt nhất cho việc tiến hành tiêm chủng đối với mỗi vaccine, thời kì nào trẻ có nguy cơ mắc bệnh lớn nhất, tính hiểm nguy của bệnh ở các lứa tuổi khác nhau và khả năng đáp ứng của trẻ khi được tiêm chủng. Tuy nhiên, dịch tể học của bệnh truyền nhiễm ở một thời gian nào đó có thể bị đổi thay do chính việc sử dụng vaccine, khi đó lịch tiêm chủng cần được điều chỉnh cho thích hợp với tình hình mới.

cứ vào dịch tể học của các bệnh truyền nhiễm tại các nước đang phát triển và khả năng cung cấp vaccine, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra chương trình tiêm chủng mở rộng với mục tiêu là làm giảm tỷ lệ con nít mắc và tử vong do các bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, sởi và tê liệt bằng tiêm chủng vaccine. Lịch tiêm chủng các vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo như sau:



Vaccine

Liều lượng

Đường tiêm chủng

Tuổi tiêm chủng

BCG (phòng lao)

0,1 ml

Trong da

(thường ở cánh tay trái)

lọt lòng hoặc bất kỳ lúc nào sau đó

Sabin (phòng bại liệt)

2 giọt

Uống

lọt lòng và lúc 2,3,4 tháng tuổi

DPT (phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván)

0,5 ml

Tiêm bắp (thường ở đùi)

Lúc 2,3,4 tháng tuổi

Sởi

0,5 ml

Dưới da

(thường ở cánh tay trái)

Lúc 9 tháng tuổi hoặc sớm nhất sau đó

Lịch tiêm chủng thông dụng là một hướng dẫn mà người ta có thể ứng dụng với một mức độ tương đối uyển chuyển tùy theo cảnh ngộ cá nhân. Lúc có sự chậm trễ trong ứng dụng lịch, không cần bắt đầu lại cả chương trình, chỉ cần lấy lại ở giai đoạn bị ngắt quãng. trí nhớ miễn nhiễm đặc biệt hiệu quả ngay trong thời gian dài.

Ngoài tiêm chủng mở rộng ở trẻ dưới 1 tuổi, tiêm chủng được chỉ định trong những trường hợp sau:

cảnh ngộ cá nhân chủ nghĩa bị thương tích: vết thương, tiêm giải độc tố uốn ván; động vật dại cắn, tiêm vaccine dại. Những tiêm chủng thực hiện sau khi bị thương tích hoặc bị cắn chỉ hiệu quả nếu thời gian bảo vệ của vaccine lớn hơn thời gian ủ bệnh. Bệnh uốn ván nhờ thế có thể tránh khỏi bằng một mũi tiêm nhắc lại. Trong bệnh dại, thời kì ủ bệnh thường ngày khá lâu nên có thê tiêm chủng sơ khởi.

Nguy cơ nghề: tiêm vaccine viêm gan B cho những cán bộ có nguy cơ ở bệnh viện.

Nguy cơ bệnh dịch: tiêm chủng nhanh cho tập thể có nguy cơ dẫn đến bệnh liệt, sởi, đậu mùa, não mô cầu, tả.

HUYẾT THANH

Nguyên lý sử dụng huyết thanh

Dùng huyết thanh miễn nhiễm là đưa vào thân thể kháng thể có nguồn cội từ người hay động vật, giúp cho cơ thể có ngay kháng thể đặc hiệu chống lại tác nhân gây bệnh Điều trị huyết thanh đem lại tính miễn nhiễm thụ động ngay thức thì nhưng thoáng qua, điều này trái ngược với tính miễn dịch hoạt động và vững bền trong tiêm chủng.

Phân loại huyết thanh

Người ta sử dụng 2 loại huyết thanh:

Huyết thanh khác loài cổ điển, cỗi nguồn động vật chính yếu là ngựa. Những huyết thanh này đặc hiệu đối với một bệnh nhiễm trùng nhất quyết đặc biệt mà động vật cho đã được miễn dịch hóa trước đó. Loại huyết thanh này có lợi điểm rẻ nhưng có những bất lợi là dung nạp kém, có thể gây quá mẫn tức khắc như shock phản vệ hoặc quá mẫn chậm như bệnh huyết thanh, hiệu lực lại ngắn hạn chỉ kéo dài đến 2 hay 3 tuần lễ sau lần tiêm thứ nhất, vài ngày sau những lần tiêm tiếp theo. dùng huyết thanh khác loài phải nên hạn chế và phải tránh tiêm lại cùng một người.

Huyết thanh đồng loài cỗi nguồn người, mới được sử dụng gần đây. Đó là chế phẩm globulin miễn nhiễm chính yếu là g globulin người tinh chế, loại tất tật nguy cơ nhiễm trùng như virus viêm gan, HIV... Đối với huyết thanh đồng loài người ta phân biệt globulin miễn nhiễm đa giá (bình thường) được lấy từ máu người khoẻ mạnh hoặc từ máu rau thai và globulin miễn nhiễm đặc hiệu được bào chế từ máu những người đã có miễn dịch như người lành bệnh nhiễm trùng hoặc mới được tiêm chủng. Trong globulin miễn dịch đặc hiệu, nồng độ kháng thể chống lại vi sinh vật, là nguyên cớ của bệnh nhiễm trùng, thường cao gấp hàng chục lần trong globulin miễn dịch đa giá.

Globulin miễn nhiễm người rất đắt tiền, nhất là loại đặc hiệu và được sản xuất giới hạn vì phụ thuộc vào người cho, nhưng có ưu điểm thường được dung nạp tốt, có thê tiêm lại cùng một người và có khả năng bảo vệ lâu dài, nhiều tuần lễ cho đến 1 tháng.

Nguyên tắc sử dụng huyết thanh

Các nguyên tắc căn bản phải thực hiện khi dùng huyết thanh là:

Đúng đối tượng

Đúng liều lượng

Đúng đường

Đề phòng phản ứng

phối hợp sử dụng vaccine

Đối tượng

Huyết thanh được sử dụng nhiều nhất để chữa và phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng. ngoại giả nó còn được dùng cho một số mục đích khác như điều trị thiếu hụt miễn dịch, dị ứng và ngừa bệnh tan máu lọt lòng.

Những huyết thanh chống nhiễm trùng chỉ có hiệu lực với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chính yếu nhờ miễn dịch dịch thể. Kinh điển nhất là huyết thanh kháng uốn ván (SAT) và huyết thanh kháng bạch hầu (SAD). Huyết thanh kháng ho gà, kháng sởi được tiêm cho trẻ chưa được tiêm chủng có tiếp xuc với bệnh nhân. Huyết thanh kháng dại được tiêm cho những người bị chó dại cắn hoặc nghi dại cắn với vết thương nặng hoặc gần đầu. ngoại giả còn có các huyết thanh kháng virus viêm gan, vius quai bị, rubêon. Globulin miễn nhiễm còn được tiêm cho những bệnh nhân viêm đường hô hấp tái phát nhiều lần.

Globulin miễn nhiễm người đa giá thường được sử dụng trong những trường hợp sau:

Điều trị suy giảm miễn nhiễm thể bẩm sinh hoặc thu hoạch.

một vài cảnh ngộ bệnh lý có nguy cơ nhiễm trùng trầm trọng như bỏng.

ngừa một đôi bệnh nhiễm trùng phổ thông như sởi, viêm gan A.

Globulin miễn nhiễm kháng D được dùng cho người mẹ có nhóm máu Rh (-) mới sinh con có Rh (+) có tác dụng cản trở sự hình thành kháng thể kháng Rh và do đó tránh được nguy cơ tan máu lọt lòng cho đứa trẻ sau. Cơ chế của hiện tượng này là globulin miễn nhiễm kháng D sẽ phá huỷ các hồng cầu Rh (+) của đứa trẻ xâm nhập vào dòng tuần hoàn của người mẹ khi sinh. Do cơ chế này, việc tiêm globulin kháng D chỉ có hiệu quả trong thời kì 72 giờ sau khi sinh.

Globulin miễn dịch người có thể trung hòa hiệu lực của một vài vaccine sống, nên chi nên tránh tiêm vaccine sởi trong 3 tháng sau khi tiêm globulin miễn dịch người.

Liều lượng

Liều lượng huyết thanh dùng tay chân vào tuổi và cân nặng của bệnh nhân, trung bình từ 0,1 đến 1 ml/kg cân nặng tuỳ theo loại huyết thanh và mục đích sử dụng. Huyết thanh kháng uốn ván được tính theo đơn vị, nhàng nhàng là 250 đơn vị cho một trường hợp. Nếu vết thương quá bẩn hoặc tiêm chậm sau 24 giờ thì liều lượng phải tăng gấp đôi.

Đường đưa huyết thanh vào thân

Huyết thanh thường được đưa vào thân bằng đường tiêm bắp. Đối với những loại huyết thanh đã được tinh luyện đạt tiêu chuẩn cao, có thể tiêm tĩnh mạch nhưng cũng rất nên hạn chế. Tuyệt đối không tiêm tĩnh mạch những huyết thanh có cỗi nguồn từ động vật (dù đã được tinh luyện) hoặc huyết thanh người chưa đạt độ tinh chế cao.

phòng ngừa phản ứng

Ở bênh nhân đã tiêm huyết thanh ngựa một lần thì lần tiêm thứ 2 có thể gây nên hiện tượng quá mẫn, nên khi tiêm huyết thanh cần thực hiện tốt các việc sau đây để ngăn ngừa phản ứng do huyết thanh gây ra:

đầu tiên phải hỏi xem bệnh nhân đã tiêm huyết thanh ngựa lần nào chưa? Trường hợp bệnh nhân đã tiêm huyết thanh rồi thì cần phải cân nhắc cẩn thận. Nếu thấy thật cấp thiết mới tiêm lại lần thứ 2 vì tỷ lệ phản ứng cao hơn nhiều so với lần thứ nhất.

phản ứng giải nhạy cảm (phản ứng Besredka) trước khi tiêm: pha loãng huyết thanh 10 lần với nước muối sinh lý 0,85 %, tiêm 0,1 ml trong da. Nếu không có mẫn đỏ sau 30 phút thì tiêm cả lượng huyết thanh cần thiết. Nếu có mẫn đỏ mà không có huyết thanh đồng loài để tiêm và tình trạng bệnh nhân bắt phải sử dụng huyết thanh thì phải tiêm dần dần từ liều nhỏ đến liều lớn cách nhau 20-40 phút và cứ như thế cho đến khi tiêm hết liều cấp thiết trong 2 giờ.

Trong quá trình tiêm huyết thanh cần theo dõi bệnh nhân liên tục để kịp thời can thiệp nếu có phản ứng xảy ra, đặc biệt là phải chuần bị đầy đủ các điều kiện để xử trí sốc phản vệ.

Tiêm vaccine phối hợp

Kháng thể do tiêm huyết thanh sẽ phát huy hiệu lực ngay sau khi tiêm, nhưng chỉ tồn tại một thời kì ngắn. Hiệu giá kháng thể này giảm nhanh trong mấy ngày đầu, sao đó giảm chậm hơn nhưng cũng sẽ bị loại trừ hết sau khoảng 10 - 15 ngày, do phản ứng với các kháng nguyên vi sinh vật và do bị thân chuyển hoá giống như số các protein lạ khác. Việc tiêm vaccine kết hợp nhằm kích thích cơ thể tạo ra miễn dịch chủ động thay thế lúc miễn nhiễm bị động do tiêm huyết thanh hết hiệu lực.

Các phản ứng do tiêm huyết thanh

Nói chung loại globulin miễn nhiễm có cội nguồn từ người đã được tinh luyện cao và đưa vào thân thể bằng đường tiêm bắp ít gây ra các phản ứng nguy hiểm. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, tỷ lệ phản ứng do tiêm huyết thanh cao hơn nhiều so với phản ứng do tiêm chủng vaccine. Những phản ứng khi tiêm huyết thanh do hai cơ chế chính:

Do thân thể phản ứng với các thành phần kháng nguyên lạ, nhất là đối với các huyết thanh chưa được tinh luyện cao.

Do cơ thể sản xuất kháng thể chống lại chính globulin miễn nhiễm.

Các phản ứng do tiêm huyết thanh có thể là tại chỗ hoặc toàn thân.

Phản ứng tại chỗ

Nơi tiêm có thể bị đau, mẩn đỏ. Những phản ứng này thường nhẹ, không gây nguy hiểm và sẽ hết sau một ít ngày.

Phản ứng toàn thân

Bệnh nhân có thể bị sốt, rét run, khó thở, đau các khớp, một số trường hợp có thể bị nhức đầu và nôn. Sốc phản vệ là phản ứng nguy hiểm nhất. Nếu tiêm huyết thanh lần đầu, phản ứng thường xuất hiện sau 10 - 14 ngày. Nếu tiêm huyết thanh lần thứ hai, phản ứng có thể xảy ra ngay sau khi tiêm đến sau một vài ngày, tay chân vào lượng kháng thể ở lần tiêm trước còn nhiều hay ít.

Các triệu chứng của sốc phản vệ như khó thở do phù nề đường hô hấp trên và co thắt thanh quản; ngứa toàn thân; nổi mề đay và ban sẩn khắp người, sưng mắt. Bệnh nhân có thể đau bụng và bí đái do các cơ trơn bị co thắt.

ngoại giả còn gặp các triệu chứng do phức hợp kháng nguyên kháng thể đọng lại trong các tiểu động mạch như viêm cầu thận, viêm cơ tim, van tim, viêm khớp...

Back To Top