Trang

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc

Tài Liệu Chữa Bệnh Đông Y Nhân Gian về các vị thuốc, bài loại thuốc và Cách chữa bệnh Y học cổ truyền tốt nhất, Tài liệu khí công chữa bệnh Y Đạo

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2021

Họ Mycobacteriaceae

Họ Mycobacteriaceae

Họ Mycobacteriaceae bao gồm các trực khuẩn có thuộc tính bắt màu thuốc nhuộm một cách đặc biệt: Vi khuẩn khó bắt màu thuốc nhuộm ba dơ nhưng khi đã bắt màu thuốc nhuộm rồi thì không bị dung dịch cồn axit tẩy màu. Người ta gọi chúng là vi khuẩn kháng axit. Phương pháp nhuộm Ziehl Neelsen ứng dụng đặc tính trên của vi khuẩn kháng axit.

Họ Mycobacteriaceae gồm nhiều loài; một số sống hoại sinh ở đất, nước, thực vật; một số gây bệnh ở người và động vật.

Nhóm gây bệnh lao:

Mycobacterium tuberculosis : vi khuẩn lao người (90% lao ở người).

Mycobacterium bovis : vi khuẩn lao bò có thể gây bệnh ở người.

Mycobacterium avium : vi khuẩn lao chim, ít gây bệnh ở người, thường gặp trong lao hạch ở người.

Mycobacterium không xếp hạng:

Là nhóm vi khuẩn kháng axít có thể gây bệnh cho người nhưng không gây bệnh cho chuột lang hoặc thỏ (phân biệt với nhóm gây bệnh lao). Dịch tễ học cho thấy Mycobacterium không xếp hạng có thể gây nên sự nhiễm trùng rộng lớn ở nhiều vùng nhưng chứng bệnh tương đối nhẹ.

Mycobacteirum leprae: gây bệnh phong.

TRỰC KHUẨN LAO (Mycobacterium tuberculosis)

Đặc điểm sinh vật học

Hình thể

Trực khuẩn lao thường gọi là BK (Bacille de Koch) là trực khuẩn mãnh, hơi cong 2 - 4mm ´ 0,2 - 0,5mm. Ở môi trường nuôi cấy nó có thể biến đổi thành hình sợi. những chủng khác nhau có thể phát triển thành những tế bào nằm riêng rẽ hoặc tụ họp thành những dây vằn vèo. Nhuộm Ziehl Neelsen vi khuẩn bắt màu đỏ có khi cho thấy những hạt màu đỏ bên trong tế bào vi khuẩn.

Cấu tạo hóa học

Điểm nổi trội là tỷ lệ lipit cao chiếm 20 - 40% trọng lượng khô của tế bào. Vì sẵn lipit ở vách tế bào (60%) vi khuẩn có tính chất kị thủy nên có thiên hướng dính liền với nhau lúc phát triển ở môi trường lỏng. tính chất kị thủy cũng giảng nghĩa thuộc tính kháng axcít và khả năng chậm phát triển của vi khuẩn (thời kì đời 24 giờ). Trong thành phần lipit đáng lưu ý là sáp và một glycolipit gọi là mycosit.

thuộc tính nuôi cấy và khả năng đề kháng

Vi khuẩn lao hiếu khí bức, nhiệt độ thích ứng 37 o C, pH thích ứng 6,7 - 7.Vi khuẩn được nuôi cấy ở môi trường giàu chất dinh dưỡng như môi trường đặc Lowenstein, Ogawa Mark, môi trường lỏng Sauton. Ở môi trường Lowenstein khuẩn lạc xuất hiện khoảng sau một tháng, khô nhăn nheo giống như hoa su lơ. Ơ môi trường lỏng Sauton vi khuẩn mọc nhiều ở bề mặt chất lỏng thành những mảng nhăn nheo, khô và dính vào thành ống.

Vi khuẩn lao phát triển chậm, thời gian gia tăng đôi là 12-24 giờ trong khi của E.coli là 20 phút. Những chủng độc lực tạo thành những khuẩn lạc R. Những chủng độc lực kém tạo thành những khuẩn lạc ít nhăn nheo hơn và phát triển ít có thứ tự hơn.

So với các vi khuẩn không sinh nha bào khác vi khuẩn lao không đề kháng hơn với nhiệt, tia cực tím và phenol. tiệt trùng theo phương pháp Pasteur (đun 62 o C trong 30 phút) đủ để giết chết vi khuẩn lao. Trái lại vi khuẩn lao đề kháng nhiều hơn với độ khô và một số chất khử trùng; khó giết chết vi khuẩn lao với những chất tẫy uế thường ngày như dung dịch cresyl 5%, nước Javel; cồn iốt chỉ giết chết vi khuẩn lao trong khoảng từ 2 đến 5 giờ.

Khả năng gây bệnh

Khả năng gây bệnh của vi khuẩn lao phụ thuộc vào độc lực của vi khuẩn và sức đề kháng của thân thể. Sự nhiễm trùng lần đầu ở một cá nhân thường tạo thành một thương tổn tự giới hạn nhưng đôi khi chứng bệnh có thể tiến triển, Hình như do sức đề kháng kém hoặc do lượng vi khuẩn thâm nhiễm quá nhiều. Do sự thăng bằng của sức đề kháng và độc lực của vi khuẩn thương tổn lành và tiến triển có thể tồn tại ở một thân thể và chứng bệnh cho thấy một quá trình mạn tính lúc không được điều trị bằng kháng sinh.

Bệnh lao thường sang trọng 2 giai đoạn:

Lao sơ nhiễm: Lần trước hết xâm nhập thân thể vi khuẩn lao thường gây nên tổn thương ở vùng ngoại vi rất thông khí của phổi. Lúc thân trở nên quá mẫn trong 2 - 4 tuần lễ sau thì thương tổn dạng hạt xuất hiện và hạt lao tiêu biểu được hình thành. Lúc này vi khuẩn lao có thể đến những hạch bạch huyết kề cận và sau đó qua đường bạch huyết và đường máu có thể đi khắp thân thể.

Lao tái phát: phần đông bệnh lao ở người là do sự hoạt động trở lại của ổ bệnh trầm lặng của lao sơ nhiễm. Những ổ bệnh thường khư trú ở phần dưới hoặc phần đĩnh hoặc gần đỉnh của phổi, ở đó sự nhiễm trùng dai dẵng nhờ nồng độ O 2 cao. Lúc chứng bệnh được khám phá thì tổn thương bã đậu thường hóa lỏng và hang lao hình thành tạo điều kiện thuận tiện cho vi khuẩn lao phân tán nhanh chóng. Vi khuẩn lao có thể lây truyền sang người khác qua đờm giải và theo phế quản đến những phần khác nhau của phổi.

Ngoài phổi phần nhiều những cơ quan khác của cơ thể cũng có thể là vị trí của bệnh lao, bình thường là đường tiểu, xương, khớp, hạch, màng phổi, màng bụng.

miễn dịch và mẫn cảm trong bệnh lao

Hiện tượng Koch

Vi khuẩn lao được tiêm dưới da vào đùi phải của chuột lang. 10 đến 14 ngày sau một sần tạo thành ở chỗ tiêm. Sần phát triển thành loét dai dẵng. Ngoài ra vi khuẩn còn giật những hạch bạch huyết kế cận. rút cuộc trong vòng 6 - 8 tuần lễ chuột chết vì lao toàn thân.

Nếu trong tuần lễ thứ 2 hoặc thứ 3 tiêm vi khuẩn lao lần 2 vào đùi trái chuột lang thì sự đáp ứng lần này nhanh hơn, mạnh mẽ hơn nhưng cũng giới hạn hơn. tổn thương xuất hiện trong vòng 2 - 3 ngày, ngay lập tức lở loét nhưng lại lành nhanh chóng. Những hạch bạch huyết kế cận không bị tiêm nhiễm. Như thế thân thể chuột lang đã hình thành một sự đáp ứng biến thể với sự nhiễm trùng lần hai.những vi khuẩn đưa vào lần sau khư trú hơn lần đầu và phát triển chậm hơn. Con vật có thể loại bỏ những vi khuẩn thâm nhập lần sau, như thế nó đã được miễn nhiễm một phần nào.

Vaccine BCG

Được điều chế từ một chủng lao bò giảm độc bằng cách cấy truyền nhiều lần (230 lần trong 13 năm) ở môi trường chứa mật bò và glycerin. Vaccine này tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh lao nhưng tính miễn nhiễm không hoàn toàn, ở người nó giảm số người mắc bệnh lao và tỷ lệ tử vong. Tiêm trong da 0,1 ml vaccine, mỗi ml chứa 0,5 đến 1 mg BCG.

mẫn cảm đối với bệnh lao

Là mẫn cảm kiểu chậm phát sinh sau khi nhiễm vi khuẩn lao. Khám phá tính mẫn cảm đó bằng phản ứng tuberculin.

Phản ứng tuberculin là một loại test nội bì để đánh giá miễn dịch lao. bản tính của nó là một phản ứng quá mẫn muộn. Tuberculin là một sản phẩm chuyển hóa của vi khuẩn lao. Tuberculin dùng trong y tế hiện thời là dẫn chất protein trong sáng (tuberculin purified protein derivative: tuberculin PPD) được điều chế từ sản phẩm chịu nhiệt của môi trường lỏng nuôi vi khuẩn lao.

Tiêm 0,1ml tuberculin PPD chứa 5 đơn vị tuberculin (5 TU) vào trong da ở mặt trước cẳng tay. Đọc kết quả sau 72 giờ. Nếu tại nơi tiêm xuất hiện nốt cứng đỏ với đường kính từ 10mm trở lên là phản ứng dương tính, nghĩa là thân đã có miễn nhiễm với vi khuẩn lao.

Phản ứng tuberculin dương tính trong các trường hợp: Bị bệnh lao, nhiễm vi khuẩn Mycobacteirum tuberculosis nhưng không mắc bệnh lao, nhiễm Mycobacteirum khác và sau tiêm vaccine BCG. Phản ứng dương tính mạnh có thể gây hoại tử hoặc loét. Phản ứng tuberculin xuất hiện khoảng một tháng sau khi nhiễm trùng và tồn tại trong thân nhiều năm và có khi suốt đời. Phản ứng âm tính lúc chưa nhiễm lao, lúc nhiễm lao chưa quá một tháng, lúc bị lao nặng ở tình trạng suy nhược không còn phản ứng, lúc mắc bệnh cấp tính như sởi, bệnh Hodgkin.

Chẩn đoán vi sinh vật

Bệnh phẩm thường ngày là đờm.

Nhuộm theo phương pháp Ziehl-Neelsen trực tiếp hoặc sau khi thuần nhất.

Phân lập vi khuẩn: dù kết quả nhuộm thế nào cũng cần nuôi cấy vi khuẩn vì nuôi cấy nhạy hơn nhuộm. Hơn nữa đặc tính khuẩn lạc còn cho phép phân biệt vi khuẩn lao với những vi khuẩn kháng axit không gây bệnh và Mycobacteirum không xếp hạng. Ngoài ra vi khuẩn phân lập được dùng để làm kháng sinh đồ.

Tiêm truyền thú vật: một phần bệnh phẩm có thể tiêm dưới da vào chuột lang. thí nghiệm tuberculin sau 3 - 4 tuần và mổ xác sau 6 tuần để tìm tổn thương điển hình và vi khuẩn lao. Vi khuẩn kháng INH không gây bệnh ở chuột lang nhưng phát triển tốt ở môi trường nuôi cấy.

Phòng bệnh và điều trị

Phòng bệnh

Bệnh lao là một bệnh xã hội. Biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu: nâng cao đời sống vật chất và ý thức. Biện pháp phòng bệnh đặc hiệu: dùng vaccine BCG.

Điều trị

Nên điều trị toàn diện: nghỉ ngơi, bồi dưỡng và thuốc. Đối với những trường hợp dùng thuốc không hiệu quả thì phải cắt bỏ một phần của phổi hoặc thùy phổi. sử dụng kết hợp các loại kháng sinh để giảm tính độc của thuốc và sự đề kháng của vi khuẩn như streptomycin, PAS và INH hoặc ethambutol, INH và rifamycin.

TRỰC KHUẨN PHONG (Mycobacterium leprae)

Đặc điểm sinh vật học

Tuy được Hansen khám phá đến nay trên 100 năm nhưng vi khuẩn phong chưa nuôi cấy được ở môi trường nhân tạo. Đó là vi khuẩn kháng axit không lông không vỏ, không sinh nha bào, có thể nằm riêng rẽ nhưng thường họp thành bó song song hoặc cụm. Vi khuẩn thường tìm thấy đều đặn ở nước mũi hoặc thương tổn ngoài da của người phong ác tính. Nhuộm Ziehl Neelsen vi khuẩn hiện ra dưới dạng những que đỏ 1 - 8 mm ´ 0,3 - 0,5 mm. Vi khuẩn thường tìm thấy trong những tế bào nội mạch của mạch máu hoặc tế bào đơn nhân. Vi khuẩn lấy ở người phong cấy vào chân chuột có thể gây nên những tổn thương mụn tròn tại chỗ, ở đó vi khuẩn phát triển giới hạn.

Khả năng gây bệnh

Vi khuẩn phong gây nên những tổn thương ở những mô lạnh: da, dây thần kinh ngoại vi, mũi, yết hầu, thanh quản, mắt và dịch hoàn. tổn thương ở da có thể xuất hiện như vết sần nhạt màu đường kính 1 - 5 cm, hoặc tẫm nhuận tỏa lan ở da. tổn thương ở thần kinh trình diễn.# dưới dạng tẩm nhuận thần kinh gây nên viêm dây tâm thần, dị giác, mòn xương, cụt ngón chân ngón tay. Nét mặt có thể bị biến dạng do tẩm nhuận da và thương tổn dây tâm thần.

Chẩn đoán vi sinh vật

Làm tiêu bản với nước mũi hoặc lấy dao cạo da ở tổn thương hoặc ở trái tai để làm tiêu bản, nhuộm Ziehl Neelsen tìm vi khuẩn.

Sinh thiết da hoặc dây tâm thần bị tổn thương: Nhuộm Ziehl Neelsen thì tìm thấy vi khuẩn phong và hình ảnh tổ chức điển hình. Trong phong ác tính tìm thấy tế bào Virchow có nhiều lỗ hổng ở đó vi khuẩn phong họp thành cụm trong phong cũ tìm thấy nhiều tế bào khổng lồ trong đó rải rát có vi khuẩn phong.

Chưa có chẩn đoán huyết thanh học. Điều đáng lưu ý là người phong thường có dương tính giả với thể nghiệm huyết thanh về bệnh giang mai.

thí nghiệm Lepromin: nấu tổ chức chứa vi khuẩn phong, đem lọc thì thu được một phẩm vật gọi là lepromin. hiện giờ lepromin đã được tiêu chuẩn hóa, nó chứa 160 x 10 6 vi khuẩn kháng axit / ml. Tiêm trong da 0,1 ml lepromin, có thể xẩy ra:

Phản ứng sớm, xảy ra sau 48 giờ gọi là phản ứng Fernandez, xuất hiện dưới hình thức sần đỏ. Phản ứng này không đặc hiệu.

Phản ứng chậm, xảy ra sau 2-3 tuần lễ gọi là phản ứng Mitsuda, xuất hiện dưới hình thức sần đỏ đường kính 3 - 5 mm : (+), 5 - 10 mm : (++), 10 mm : (+++). Phản ứng Mitsuda trong thực tiễn chỉ để tiên đoán bệnh.

Dịch tể học

Bệnh phong không lây truyền mạnh và không cần cách ly bệnh nhân. tuồng như trẻ mỏ mẫn cảm với sự nhiểm trùng hơn người lớn. thời kì ủ bệnh kéo dài nhiều năm (thường từ 1 đến 10 năm). bình thường bệnh được phát hiện ở người trưởng thành. Hình như đa số bệnh nhân nhiễm bệnh lúc còn nhỏ tuổi với người trong gia đình.

dự phòng và điều trị

ngừa

Khám phá và điều trị những trường hợp bệnh hoạt động.

đề phòng bằng Sulfon cho những người thẳng tính xúc tiếp với bệnh nhân.

Tiêm BCG. Có những khảo sát cho thấy tiêm BCG tăng sự đề kháng với vi khuẩn phong và sự tiến triển của chứng bệnh.

Điều trị

Sulfon, clofazimine và rifamycin loai bỏ sự phát triển của vi khuẩn và sự tiến triển của chứng bệnh. Uống trong nhiều tháng.

Back To Top