Cây bông trang đỏ thì đã quá thân thuộc với nhiều công dụng làm thuốc nhưng bông trang vàng và bông trang trắng thì như thế nào? Chúng có tác dụng dược lý không?
Hơn nữa, trong xu thế quay trở về với y học truyền thống thì việc nghiên cứu dược tính của hai loại cây này đã đạt được những kết quả nào? Mời các bạn cùng mình tìm hiểu nhé.
Vài nét về bông trang vàng và bông trang trắng
Nhìn chung, hai loại bông trang này không phổ biến bằng bông trang đỏ nhưng trong trồng cây trang trí và nghệ thuật thì chúng lại rất được chuộng, đặc biệt là cây trang vàng.
1. Bông trang vàng có tên khoa học là Ixora coccinea L. var. lutea, thuộc dạng cây bụi, lá thon dài và có các cánh hoa với màu vàng tươi sáng, rất đẹp (cánh hoa thường dài khoảng 1, 2 cm). Quả của cây là quả hạch.
2. Bông trang trắng (hay còn gọi là cây đơn trắng), có tên khoa học là Ixora nigricans R. Br. ex. Wight. et. Arn ( ). Đây là cây gỗ nhỡ, vỏ cây màu đen xám. Lá trang trắng có hình bầu dục, thuôn và có lá kèm.
Hoa trang trắng mọc thành chùm dưới hình trạng xim ở đầu cành hay nách lá, tràng hoa hình ống, thuôn dài và cánh hoa xẻ làm 4 thùy. Quả trang trắng khi chín có màu đen bóng và chứa 2 hạt bên trong.
Đơn trắng (bông trang trắng)
Công dụng làm thuốc của bông trang vàng và bông trang trắng
Nhìn chung, công dụng làm thuốc của hai loại này không nhiều và cũng không phổ thông như cây trang đỏ. Tuy nhiên, theo tư liệu y khoa cổ truyền, ta có thể ghi nhận các công dụng sau:
- Cây trang vàng : giúp an thần, giảm buồn nôn (lấy rễ cây rửa sạch, xắt nhỏ, phơi khô rồi nấu lấy nước uống).
- Cây trang trắng : giúp an thai, mát máu, điều trị bạch đới (dùng hoa). ngoại giả, cây trang trắng còn giúp bổ gân xương và điều trị suy thận . Được biết, danh y Việt Cúc có ghi lại công dụng của cây trang trắng thành dạng vần vè cho dễ nhớ như sau:
“Trang trắng lạt, bình, vị chát ngơ
Điều kinh, nhuận huyết, chữa gân đơ
Lưng đau, thận yếu cùng bạch đới
Mát mẻ thai bào, phóng thích ho”.
Tham khảo:
Cây trang trắng
Các nghiên cứu về cây trang trắng
y khoa cổ truyền ghi nhận cây trang trắng có tác dụng bổ gân xương và điều này được củng cố thêm khi ta biết rằng kết quả thử nghiệm về lá trang trắng cũng cho thấy nó có tác dụng chống viêm khớp.
Cụ thể, theo tập san Journal of Medicinal plants research thì chiết xuất methanolic từ lá trang trắng có hoạt tính chống viêm khớp đáng kể – gần bằng thuốc tiêu chuẩn – với hiệu suất 79,35% ở nồng độ 1000 ug / ml và 46,77% ở nồng độ 31,25g / ml (trong khi hiệu suất của thuốc tiêu chuẩn là 85,49% ở nồng độ 1000 ug / ml và 51,61% ở nồng độ 31,25g / ml) ( ).
Như vậy, có thể thấy các nghiên cứu dược lý về cây trang trắng và cây trang vàng còn rất ít oi. Điều này cũng khởi hành từ thực tế hiển nhiên vì có nhiều thảo dược khác giàu hoạt tính hơn.
chung cuộc, cần chú ý phân biệt hai loại này với nhiều loài khác cùng chi, tránh nhầm lẫn cây trang vàng với cây trang cam (Ixora coccinea var. caudata, hoa có màu vàng đậm hơn) và cũng tránh lầm lẫn giữa cây trang trắng với cây hé mọ (Psychotria reevesii, nhìn cũng như bông trang đỏ nhưng có màu trắng).
- Ixora nigricans , , ngày truy cập: 30/ 07/ 2020.
- Võ Văn Chi, Cây thuốc An Giang, Ủy ban Khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, trang
- Anti-arthritic and cytotoxic effects of methanolic extract of Ixora nigricans leaf , , ngày truy cập: 30/ 07/ 2020.