Có những loài cây khi nghe tên người ta cứ thấy ngờ ngợ mặc dầu đã gặp nó rất nhiều lần, chả hạn như… hoa phấn. Nếu chỉ nghe “hoa phấn”, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng loài hoa này có màu trắng như phấn nhưng thực tế lại không phải. Hoa của nó thường có màu hồng phấn – màu phấn má đào của các chị em phụ nữ.
Chính vì vậy, trước đây, khi chưa được xúc tiếp với các món đồ chơi trang điểm, trẻ thơ miền quê rất thích hái hoa phấn giã nát rồi lấy nước thoa lên da như đánh má đào (hoa phấn cùng với trái mồng tơi ép lấy nước làm son đã trở thành “bộ đôi huyền thoại”!). Không chỉ thế, quả của cây hoa phấn còn có chất phấn mịn và trắng bên trong, bởi vậy, lớp phấn này cũng được thoa lên da.
Vài nét về cây hoa phấn
Hoa phấn là loài cây cảnh khá phổ quát ở nước ta và thường có hoa màu hồng phấn. Trên thực tại, ở một số giống hoa phấn, hoa của nó trên cùng một cây còn có thể có nhiều màu sắc khác nhau như đỏ, trắng, vàng, hỗn hợp… Hoa phấn có tràng hoa dài, cánh mỏng và thơm nhẹ (thơm nhiều hơn vào ban đêm).
Cây hoa phấn với nhiều màu hoa khác nhau
Hoa phấn có tên khoa học là Mirabilis jalapa , thuộc họ Hoa giấy: Nyctaginaceae ( ). Ngoài tên gọi này, cây còn được gọi là bông phấn, yên chi, sâm ớt… Ở Trung Quốc, cây được gọi là Tử mạt lỵ (紫茉莉, nghĩa là hoa nhài tím).
Nhìn chung, cây hoa phấn dễ trồng, ít sâu bệnh và tán cây không cao nên rất dễ coi ngó. Nếu trồng theo hàng có lên luống, mỗi cây sẽ mọc xòe thành các bụi nhỏ và mỗi bụi lại nở rất nhiều hoa, nhìn rất đẹp mắt. Quả cây hoa phấn có hình tròn và khi chín thì vỏ quả chuyển sang màu đen ( ). thường nhật, sau khi trồng từ 4 – 5 tháng, cây sẽ cho rễ củ mập (vỏ ngoài màu đen nhưng bên trong thì trắng).
Công dụng làm thuốc của rễ cây hoa phấn
Sau khi thu hoạch, rễ cây được thái lát rồi phơi khô. Lúc này, ở các miếng rễ sẽ nổi lên những đường tròn đồng tâm và có mùi nhẹ gây buồn nôn (nếu nếm thử thì hơi gây ngứa cổ). Khi dùng làm thuốc, người ta đem các lát rễ tẩm nước gừng rồi sao vàng (2).
Theo Đông y, rễ hoa phấn có vị lạt hoặc hơi ngon ngọt và có các tác dụng sau:
- Thanh nhiệt, lợi tiểu.
- Khử thấp, tiêu viêm.
- Hoạt huyết, tán ứ, giải độc.
- Điều trị băng huyết.
- Điều trị đau vú, ung độc.
- Điều trị viêm amidan.
- Điều trị chứng tiểu ra dưỡng trấp.
Cách dùng : Lấy rễ cây tẩm nước gừng, sao lên rồi sắc uống từ 8 – 16 g mỗi ngày (3). Nếu không dùng thuốc sắc thì có thể tán bột uống (mỗi ngày từ 6 – 16 g bột) (3) (4).
ngoại giả, rễ hoa phấn còn được dùng trong các trường hợp như nhọt vú, tiểu ra máu, tiểu đục, tiểu buốt, viêm tuyến tiền liệt, bạch đới, tiểu đường và viêm đường tiết niệu (lấy 20 g rễ đã thái lát, phơi khô hoặc 40 g rễ tươi, xắt mỏng rồi nấu nước uống) (3).
Toàn cây tươi
Bài thuốc kết hợp : Trong trường hợp phát ban , có thể dùng 12 g rễ hoa phấn sắc chung với 30 g huyền sâm, 8 g thăng ma, 8 g phục thần, 10 g xuyên quy, 4 g hoàng liên, 4 g cam thảo Bắc và 4 g kinh giới, mỗi ngày uống 1 thang (3).
- Tham khảo:
Công dụng của hoa và lá hoa phấn
Hoa : Hoa của cây hoa phấn ít được dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp ho ra máu, có thể lấy 120 g hoa, chiết dịch rồi hòa với mật ong và uống trong ngày (4).
Lá : Ở Malaisia, lá cây hoa phấn được dùng điều trị bỏng và sưng tấy (ép lấy nước rồi thoa lên) (3). Ở Campuchia, lá cây hoa phấn còn được dùng với tác dụng hạ sốt (chà nát rồi thoa lên dữ) hoặc để tẩy xổ và giải độc thức ăn (nấu nước uống cùng với rễ, liều lượng 1 – 2 g mỗi ngày với người trưởng thành). Tuy nhiên, cần lưu ý chỉ dùng một lượng rất nhỏ từ 1 – 2 g, nếu dùng cho trẻ em thì phải bớt liều và phải có sự theo dõi của bác sĩ (2).
Ngoài ra, lá và cây hoa phấn còn được dùng tươi, nghiền nát hoặc nấu lấy nước để đắp, rửa các vết bầm dập do tổn thương, ngứa do nổi mề đay, viêm mủ, đinh nhọt, mụn lở, áp xe, eczema và viêm vú mới phát (3) (4).
Lưu ý
- Đối tượng cần tránh : Rễ cây hoa phấn có tính hoạt huyết nên phụ nữ mang thai không được dùng (3).
- Độc tính : Rễ cây hoa phấn hơi có độc, cho nên, cần để ý về liều lượng và tham khảo quan điểm bác sĩ trước khi dùng (4).
Tham khảo:
- Hoa phấn , , ngày truy cập: 15/ 03/ 2020.
- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam , Nxb Y học, 1999, trang 469.
- Nhiều tác giả, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam , tập 1, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2004, trang 925.
- Võ Văn Chi, Cây thuốc An Giang, Ủy ban Khoa học và kỹ thuật An Giang , 1991, trang 281.