Khi nghe đến “hài nhi trà”, có phải bạn nghĩ đến một loại trà hay một loại hoa trà không? Đều không phải nhé!. Nhi trà là một loại cao được nấu từ cành lá của một số loài cây và cũng không phải để uống như trà.
Trong y khoa cổ truyền, nhi trà được dùng hiệu quả trong nhiều trường hợp ngoài da để cầm máu, làm lành da non và điều trị lở loét. Vậy, vị thuốc này còn có những công dụng nào và cần lưu ý gì khi sử dụng?
Vài nét về “nhi trà”
Vị thuốc “nhi trà” là một dạng cao, có màu nâu hoặc màu nâu đen và được nấu từ:
1. Nấu từ cành cây Nhi trà (儿茶), hay còn gọi là cây Hài nhi trà, cây Keo cao, cây Bách dược tiễn (tên khoa học là Acacia catechu, thuộc họ mắc cỡ). Với cây này, người ta chỉ dùng phần cành của nó đem phơi khô rồi nấu thành cao. Về đặc điểm, loại cao này có màu đen nên được gọi là Hắc nhi trà ( ).
Cây nhi trà
2. Nấu từ cành non (có cả búp) và lá của cây Nhi trà câu đằng (Uncaria gambir, 儿茶钩藤, thuộc họ Cà phê). Loại cao này có màu nâu xám và được gọi là Phương nhi trà (hay Tông nhi trà). Hiện tại, hai loại thuốc này vẫn được nhập từ Trung Quốc (2).
Công dụng của nhi trà
Nhi trà không có mùi nhưng có vị đắng chát (hài nhi trà thì trước đắng sau ngọt, phương nhi trà thì đắng chát).
1. Dùng ngoài da
Trong y khoa cổ truyền, nhi trà thường được nghiền nát rồi rắc lên da để:
- Cầm máu.
- Giúp giảm nhức răng.
- Làm lành vết loét do trĩ.
- Điều trị mụn lở loét và lở miệng (2).
Bên cạnh đó, nhi trà còn được kết hợp với các vị thuốc khác để điều trị lở lỗ tai, lở da đầu, chảy nước vàng và da dẻ nứt lở (không chịu lên da non).
Cách dùng như sau : lấy 2 g long cốt, 1 g khinh phấn, 2 g nhi trà và 1 g băng phiến, sờ soạng cùng nghiền thành bột rồi bôi ngoài da (2).
Tham khảo:
2. Làm thuốc uống
Theo y học cổ truyền, nhi trà có tính hơi lạnh, thông vào kinh Phế và có tác dụng:
- Thanh nhiệt, tiêu đờm.
- xúc tiến bài xuất tân dịch.
- Điều trị lỵ.
- Điều trị khô khát.
- Điều trị ho đờm và sốt (2).
Cách dùng : Mỗi ngày, lấy từ 1 – 3 g nhi trà, sắc lấy nước uống (2).
Một số bài thuốc kết hợp
1. Điều trị chứng cam tẩu mã ở trẻ mỏ
Cam tẩu mã là một trong những “quái chứng” làm tàn phá dung mạo và sức khỏe con người. Tuy nhiên, y học cổ truyền cũng đã ghi nhận một số bài thuốc có thể ngăn chặn và điều trị căn bệnh này, trong đó có bài thuốc phối hợp sau:
- Thành phần : hài nhi trà (40 g), hoàng liên (20 g), bạc hà, hoàng bá, bằng sa (tức hàn the) và thanh đại (mỗi thứ 24 g), nhân trung bạch (80 g) và băng phiến (2 g).
- Cách dùng : Lấy tất các vị trên tán bột và để dùng dần. Trước khi dùng thuốc, người bệnh nên súc miệng bằng nước trà thơm rồi hãy xát thuốc lên (3).
Nhi trà
2. Điều trị các chứng “hạ cam” và u nhọt
Hạ cam là một loại bệnh lây qua đường sinh dục và có thể gây ra các vết loét (hao hao như bệnh tim la). Để điều trị bệnh này cũng như chứng u nhọt, các bệnh nhân có thể tham khảo bài thuốc sau:
- Thành phần : 20 g hài nhi trà, 20 g giáng chân hương (hay còn gọi là hoàng kim giáp), 8 g nha mạt, 0, 8 g phèn phi, 0, 8 g trân châu và 0, 8 g long não.
- Cách dùng : lấy các vị trên nghiền thành bột rồi rắc lên vùng da bệnh (3).
3. Điều trị lở loét trong lòng bàn tay
Chứng lòng bàn tay lở loét còn được gọi là nga chưởng phong. Để điều trị chứng bệnh này, y khoa cổ truyền có ghi nhận bài thuốc kết hợp sau:
- Thành phần : băng phiến (0, 16 g), (0, 4 g), hạnh nhân (7 hạt) và các vị nhi trà, đại hoàng, hùng hoàng, tạo phàn, đồng lục, khinh phấn, thanh diêm, đởm phàn, khô phàn (mỗi loại 1, 6 g).
- Cách dùng : Lấy các vị thuốc trên đồng tình bột và để dùng dần. Mỗi lần dùng thì lấy một lượng bột vừa đủ hòa với dầu Tô hợp rồi bôi lên da (3).
Lưu ý
- Trong tuyển lựa : Với “hài nhi trà” thì loại có màu đen pha đỏ, có tính thu liễm mạnh là tốt. Với “phương nhi trà” thì loại có màu nâu đen và dính là tốt (2).
- Trong bảo quản : Không nên đựng thuốc trong các vật dụng bằng Sắt (vì vị thuốc này có thể phản ứng với Sắt) (2).
- Đối tượng lưu ý : Những người thuộc chứng hàn thấp không được uống (2).
- Keo cao , , ngày truy cập: 30/ 04/ 2020.
- Phạm Thiệp – Lê Văn Thuần – Bùi Xuân Chương, Cây thuốc bài thuốc và biệt dược , NXB y học, 2000, trang 214.
- DS Đào Duy Cần – ThS Hoàng Trọng Quang, Phương thang y học cổ truyền , NXB y học, HN, 2009, trang 162 – 308 – 333.