Có một mẹo nhỏ rất hay khi nuôi cá kiểng, đó là lấy bàng khô cho vào thau nước, bóp nát ra và để một lát cho nước ngả màu thì đổ vào hồ cá cảnh, như thế sẽ giúp diệt khuẩn và tạo môi trường tự nhiên cho cá.
Không chỉ thế, với những loại cá trực tính đá nhau dẫn đến bị thương thì nước lá bàng khô còn giúp sát khuẩn và làm vết thương mau lành hơn.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng không chỉ lá bàng khô mà lá bàng tươi cũng có công dụng riêng của nó, đó là điều trị viêm đường hô hấp trên.
Thật vậy, có những giá trị rất gần gụi mà chúng ta thường hay bỏ qua, chẳng hạn như lá bàng khô rụng đầy sân hay lá bàng tươi che rợp mát.
Cách dùng lá bàng tươi điều trị viêm đường hô hấp trên
Thời điểm trước Tết, khí trời hay thay đổi đột ngột nên nhiều người bị sổ mũi, nghẹt mũi, ho, đau rát họng, nhảy mũi, nhức đầu…
Cô của mình, vốn đã có tiền sử bị viêm đường hô hấp trên (viêm họng), giờ lại bị lại và nặng hơn nhiều. giả dụ trước đây, mỗi lần bị bệnh là cô đi mua ngay tân dược (thường là kháng sinh) thì thời gian gần đây, cô mình bắt đầu chuyển sang dùng thảo dược tự nhiên để tránh tác dụng phụ.
Lá bàng
Bài thuốc này cô mình học được từ những người quen biết và thấy có bệnh thì dùng thử. Cô bảo “ nhà có cây bàng thì thử xem hiệu nghiệm không chứ trong lòng vẫn chuẩn bị đi khám cho chắc “.
Thế rồi cô nấu lá bàng lấy nước súc miệng, súc vài lần thì khỏi hẳn.
Cách nấu : hái vài chục lá bàng tươi, rửa sạch bụi bặm, đem vò sơ bằng tay cho dập nát ra rồi cho vào nồi (không cần xay nát), sau đó đổ thêm hai lít nước vào, nấu cho sôi (lưu ý đậy kín nắp).
Khi nước sôi, ta vặn lửa nhỏ lại và để thêm nửa tiếng nữa thì tắt bếp (vẫn đậy nắp).
Lát sau, khi thấy nồi nước bớt nóng (còn âm ấm) thì ta cho thêm muối cục (muối hạt) vào, nêm thử sao cho nước không mặn quá, vừa đủ mặn như nước canh là được (dùng khoảng 2 muỗng muối). Nước lá bàng an toàn và không khó nếm nên bạn cứ yên tâm nếm thử rồi nhả bỏ nhé.
Cách dùng : Với nước này, bạn chia thành các chai nhỏ để dùng dần (phần còn dư thì bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh). Mỗi ngày, bạn dùng nước này súc miệng, trong lúc súc thì ngửa cổ lên rồi khò họng vài lần (khoảng 5 lần), trong lúc khò họng thì mở cổ họng cho nước xuống sâu một tí (sẽ có nuốt một tẹo nước). Với cách dùng này thì các chứng lở miệng, đẹn… cũng đều mau khỏi.
Nếu bạn bị sổ mũi, chảy nước mũi nhiều thì có thể lấy nước này hòa với nước cho loãng ra rồi rửa mũi (có thể cho vào thau rồi nín thở, úp mũi vào rửa sẽ tiện hơn).
Liều dùng : mỗi ngày thực hành từ 1 đến 3 lần (thường thì chỉ vài lần là khỏi).
Lưu ý : Khi dùng nước sắc lá bàng để khò họng hay rửa mũi thì bạn nên hâm cho ấm nhẹ rồi dùng. Bên cạnh đó, bạn nên dùng tuần tự từng chai, hết chai này thì dùng tiếp chai khác nhưng lưu ý mỗi chai sau khi mở nắp lần đầu thì chỉ dùng trong 7 ngày là tối đa, nếu sau 7 ngày mà vẫn còn thì đổ bỏ, không dùng nữa). ngoại giả, nếu thấy nước có mùi lạ thì cũng không nên dùng (nấu tiếp đợt mới).
Tham khảo:
Búp lá bàng
thông báo thêm
Ngoài bài thuốc dân gian kể trên thì theo y khoa cổ truyền, lá bàng còn được dùng trong các trường hợp như:
- Giúp giảm đau nhức : lấy lá tươi (lượng vừa đủ), rửa sạch, giã nát, sau đó xào cho ấm lên rồi đắp lên chỗ nhức (theo quyển Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam ).
- Điều trị ghẻ ngứa và sâu quảng : hái búp lá non (lượng vừa đủ), rửa sạch, phơi khô rồi cho vào máy xay sinh tố, xay nát thành bột mịn và rắc lên da thẳng thớm.
- Giúp giảm sâu răng : hái búp lá non (vừa đủ), rửa sạch rồi cho vào nồi, nấu lấy nước thật đặc rồi để nguội, dùng nước này ngậm rồi nhổ bỏ và nên thực hiện nhiều lần (theo quyển Cây thuốc An Giang ) (2).
- Điều trị cảm sốt và giúp ra mồ hôi: hái lá bàng non, lá từ bi (cúc tần) và lá hương nhu, mỗi loại 10 g, rửa sạch rồi nấu lấy nước uống. chú giải : nếu không có lá bàng non thì dùng búp lá cũng được (theo quyển Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1 ) (3).
- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam , Nxb y khoa, 1999, trang 201.
- Võ Văn Chi, Cây thuốc An Giang , Ủy ban Khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, trang 39.
- Nhiều tác giả, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1 , NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2004, trang 173.