Bạn biết đấy, trong kho tàng cây thuốc – vị thuốc Việt Nam có rất nhiều dược liệu thơm. Những loại này không chỉ được dùng làm thuốc mà còn trở thành nguyên liệu trong chế tác nước hoa và hương nhang. Trong số đó, có thể kể đến nhũ hương.
Nhũ hương là gì? Nó có tác dụng gì và những trường hợp nào không nên dùng?
Vài nét về nhũ hương
Nhũ hương là nhựa gôm của cây Pistacia lentiscus 乳香, hay còn gọi là cây huân lục hương, cây dương nhũ hương…
Loài này có xuất xứ từ Ấn Độ và các nước ven Địa Trung Hải (vì thế, nguồn dược liệu hiện có ở nước ta là nhập cảng).
Đặc điểm cây : thân gỗ nhỡ, cao khoảng 5 mét, lá kép lông chim, toàn cây có nhựa.
Cây nhũ hương
Đặc điểm nhựa (nhũ hương) :
Thu hoạch : Nhựa cây thường được thu vào tháng 6 và phơi trong chỗ râm mát.
thuộc tính : Nhựa lúc trên cây nhỏ xuống có hình dạng giọt, sau khi thu lấy thì không có hình thù nhất mực và có tính mềm dẻo. Lúc mới trích, nhựa có màu vàng nhạt và trong suốt, để lâu thì chuyển sang màu đục hơn (nhìn bên ngoài thì có màu trắng mờ, bên trong thì bóng và trong, nếu cắn vào thì sẽ dính răng).
Nhựa cây nhũ hương
Mùi vị : Khi đốt lên, nhũ hương tỏa hương thơm mát, dễ chịu (tro than có màu đen).
Tính vị : Nhũ hương vị cay và có tính ấm (1) (2) (3).
Nhũ hương có công dụng gì?
Nói đến nhũ hương là nói đến tác dụng hoạt huyết, hành khí. Khi đi vào thân thể, dược liệu thông vào gan, thận; giúp điều khí, tiêu giải ung nhọt và bài trừ các loại khí độc (1) (2) (3).
Các sách Y học còn ghi lại nhiều công dụng của nhũ hương như:
- Trừ các chất độc kết tụ trong mụn nhọt, chứng gân cốt cứng và đàn bà khó sinh đẻ ( Bản thảo cương mục ).
- Điều trị các chứng như cấm khẩu do trúng gió độc, say rượu bị trúng gió lạnh, giúp tiêu độc sang nhọt và dùng cho trường hợp nữ giới huyết trệ ( Bản thảo thập di ).
- Dùng cho người bị chấn thương do đòn ngã, máu bầm sưng đau hoặc tức ngực do huyết ứ, khí trệ và ho ( Cây thuốc bài thuốc và biệt dược).
Liều lượng : mỗi ngày dùng từ 3 – 6 g bằng cách sắc uống hoặc tán bột uống (gia giảm theo tình trạng bệnh và hướng dẫn của bác sĩ) (1) (2) (3).
Nhựa cây
Ngoài ra, ở Ấn Độ, cây này còn được biết đến với tác dụng lợi niệu, giúp ngừng ho. bởi vậy, dân gian cũng dùng nó trong điều trị ho, viêm phế quản và bí tiểu tiện (3).
Những người không nên dùng nhũ hương
- Người bị bệnh mà không có ứ trệ hoặc ung độc đã vỡ mủ thì không nên dùng (1).
- Vì thuốc có tính hoạt huyết nên đàn bà mang thai và những người kinh nguyệt ra quá nhiều cũng không nên dùng (2).
Các bài thuốc thường dùng
Khi bị hóc xương, nếu có nhũ hương, bạn có thể lấy một ít (khoảng 4 g), nghiền thành bột rồi pha với nước và uống (1).
Không chỉ thế, trong nhiều trường hợp, nhũ hương còn được dùng chung với các vị thuốc khác để tương trợ, hợp đồng về hoạt tính, từ đó giúp bệnh mau khỏi hơn. Có thể kể ra một số trường hợp như:
1. Điều trị máu bầm tím và sưng đau do chấn thương, đòn ngã, bị đánh
- Chuẩn bị : nhũ hương, xuyên khung và một dược (mỗi loại 5 g), (3 g), huyết kiệt (6 g), xích thược, sinh địa và mẫu đơn bì (mỗi loại 10 g).
- Thực hiện : nghiền các vị trên thành bột rồi trộn đều và để dùng dần.
- Liều lượng : mỗi lần uống 3 g bột, mỗi ngày uống hai lần và uống bằng nước ấm (nếu người bệnh biết uống rượu và không bị bệnh gan thì có thể uống thuốc bằng rượu trắng bình thường).
2. Điều trị mụn nhọt sưng tấy gây đau nhức (mụn chưa vỡ mủ)
- Chuẩn bị : nhũ hương, một dược (mỗi loại 5 g), cam thảo Bắc, hoàng kỳ, , mẫu lệ, ngưu bàng tử, thiên hoa phấn (mỗi loại 10 g) và kim ngân hoa (15 g).
- thực hành : nấu lấy nước uống mỗi ngày càng thang (2).
3. Cao dán nhọt giúp tiêu độc
-
- Chuẩn bị : các loại vật liệu như: nhũ hương, phèn chua đã phi lên, hoàng cầm, hoàng liên, hạt xà sàng, khổ sâm và đại hoàng…
- thực hành : xay các vị trên cho nhuyễn rồi cho vào nồi, đổ mỡ lợn vào và nấu cho thành cao rồi phết lên giấy, sau đó dán lên mụn nhọt.
- chú thích : cao dán này dùng cho trường mụn nhọt lâu ngày (hoặc mụn nhọt lặn chỗ này rồi lại mọc chỗ khác).
*Phân biệt : Ở tỉnh An Giang có cây mò giấy (hay còn gọi là mò gỗ, chập chạ trắng) có tên khoa học là Litsea monopetala. Cây này cũng được gọi là nhũ hương (lá mọc so le, phiến lá to hơn chứ không phải lá kép lông chim như cây nhũ hương trong bài viết này). nên chi, khi dùng cần để ý để tránh nhầm lẫn (4).
- Nguyễn Văn Quý – Nguyễn Phương , Thuốc Bắc thườ ng dùng , NXB y khoa, 2002, trang 385.
- Phạm Thiệp – Lê Văn Thuần – Bùi Xuân Chương, Cây thuốc bài thuốc và biệt dược, NXB y khoa, 2000, trang 218.
- Nhiều tác giả, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam , tập 2, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2004, trang 472.
- Võ Văn Chi, Cây thuốc An Giang , Ủy ban Khoa học và kỹ thuật An Giang, 1991, trang 418.