Ai đã từng một thời sống ở vùng sông nước ắt hẳn sẽ không lạ gì phèn chua. Loại phèn này, nước sông đục như thế nào cũng chỉ cần cầm nó, khuấy vài chục vòng là cặn bùn sẽ được tách ra, lắng xuống và nước trong ngay.
Với chị em làm bếp thì phèn chua lại gần gũi hơn nữa. Đó là khi gọt khoai ngọt hay làm cá, nếu thấy nhớt nhiều quá, khó rửa sạch thì chỉ cần lấy nước phèn loãng rửa sơ qua là nhớt trôi ngay.
Trong Đông y, phèn chua còn là vị thuốc phổ quát giúp điều trị nhiều bệnh khác nhau, có khi dùng ngoài da, có khi làm thuốc uống.
Vài nét về phèn chua
Phèn chua (hay còn gọi là minh phàn, bạch phàn), có tên khoa học là Alumen và có công thức hóa học là K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O. Vị thuốc này có màu trắng trong, có khi hơi đục hoặc hơi vàng, nếu rang lên thì xốp (phèn chua rang lên thì gọi là phèn phi hoặc khô phàn).
Vị thuốc ở dạng tảng
Ở nước ta, phèn chua được sinh sản từ nhiều phương pháp khác nhau và thường được bán ở dạng các khối cục tinh thể nhỏ to khác nhau, có vị ngọt chua và hơi chát, tan trong nước rất tốt nhưng lại không tan trong cồn (1) (2).
Công dụng làm thuốc của phèn chua
Phèn chua là vị thuốc lành tính và dễ tìm trong đời sống hàng ngày. Theo y khoa cổ truyền, phèn chua có tính lạnh và có thể dùng ngoài da để diệt trùng, giảm ngứa (hòa vào nước rồi rửa thẳng).
Bên cạnh đó, ta cũng có thể dùng phèn chua điều trị các chứng như ho ra máu, các loại xuất huyết (giúp cầm máu) và bệnh nhiệt trong xương tủy.
Cách dùng : uống từ 0,3 – 1 g khô phàn mỗi ngày (tùy trường hợp mà thầy thuốc có thể tăng liều lên 2 hoặc 4 g mỗi ngày) (1) (2).
Phèn chua làm thuốc
ngoại giả, trong một số trường hợp cụ thể, cách dùng vị thuốc này có thể khác hơn, chẳng hạn như:
- Trường hợp ỉa và tiểu tiện không thông : lấy phèn chua tán nhỏ ra, sau đó đắp vào lỗ rốn cho đầy rồi lấy nước nhiễu vào (nếu thấy cảm giác lạnh thấu vào trong bụng thì sẽ đi đại tiện, tiểu tiện được) (2).
- Trường hợp bị rắn rết cắn, độc khí vào bụng khiến cho chân tay cứng nhắc, mắt thâm và cấm khẩu : lấy phèn chua và cam thảo (liều lượng bằng nhau), đem tán nhỏ ra rồi nỗi lần uống thì lấy 8 g hòa với nước uống (2).
- Trường hợp viêm ruột cấp tính : lấy 100 g phèn chua rang lên cho thành phèn phi, sau đó tán nhỏ và để dùng dần. Mỗi ngày, lấy 0,5 g đến 1 g phèn phi ấy, chia ra hai hoặc ba lần uống (1).
Lưu ý khi dùng phèn chua
- Đối tượng cần tránh : Những người bị bệnh do âm hư mà không thấp nhiệt thì không được dùng. Bên cạnh đó, người âm hư mà không thực tà thì cũng không được dùng.
- Trong phối hợp : Không dùng chung với ma hoàng hay mẫu lệ vì các vị này kỵ nhau (2).
- Thời lượng dùng : Ta dùng thuốc đến khi khỏi bệnh thì ngưng, không nên dùng liên tục trong thời kì dài (sách Bản thảo cầu chân còn nhấn mạnh: “ tạm dụng thời nên, nếu dùng luôn thì tổn tinh huyết “) (2).
Các bài thuốc kết hợp thường dùng
1. Điều trị bạch đới khí hư
- Chuẩn bị : và phèn phi (liều lượng bằng nhau).
- Thực hiện : tán nhỏ hai vị trên rồi nấu nước và đợi nước nguội thì dùng rửa âm hộ (1).
2. Điều trị đinh nhọt sưng đau
- Chuẩn bị : phèn chua và (liều lượng bằng nhau).
- Thực hiện : lấy hai vị trên tán nhỏ, trộn với bã trà rồi đắp lên chỗ bị đinh nhọt (2).
3. Điều trị chảy máu cam, nôn ra máu, đại tiện ra máu, băng lậu hoặc xuất huyết
- Chuẩn bị : bạch phàn (phèn chua) và hài nhi trà (liều lượng bằng nhau tùy theo số lần muốn dùng).
- Thực hiện : tán hai vị trên thành bột rồi để dùng dần. Mỗi lần dùng, lấy 1,5 g bột thuốc ấy hòa với nước nóng, để ấm lại rồi uống (2).
Thông tin thêm
Vị thuốc phèn chua được ứng dụng từ lâu trong lịch sử y khoa cựu truyền phương Đông và cũng được nhắc đến trong nhiều công trình y khoa nổi tiếng như Bản thảo bị yếu, Bản thảo cương mục, Bản thảo cầu chân, Đại Minh chư gia tư thảo …
Trong đó, vị thuốc này thường được nhấn mạnh công dụng dùng ngoài da, chả hạn, sách Bản thảo cương mục ghi rằng: “ Minh phàn chữa ung sang đinh nhọt, thông đại tiểu tiện, khỏi đau răng, đau mắt, chó, rắn và các loại sâu bọ cắn ” (2).
1. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam , Nxb y học, 1999, trang 1046.
2. Nguyễn Văn Quý – Nguyễn Phương , Thuốc Bắc thườ ng dùng , NXB y khoa, 2002, trang 593.